Trong mắt người quản mộ

Tâm hồn quảng đại của bà Điềm đã lay động chú Thuyên, để một người xa lạ như chú nguyện phụng sự, gắn bó với bà Điềm từ cõi tạm cho đến cõi âm, kể đến khi hơi tàn sức kiệt.

Trên ngọn đồi thông ở làng Châu Chữ, thành phố Huế, tôi theo chân chú Nguyễn Thuyên để thăm mộ điêu khắc gia Điềm Phùng Thị (1920–2002), được song táng cạnh chồng, với mộ phần của thân mẫu bà cũng nằm trên ngọn đồi kế bên. Cuộc gặp gỡ hôm ấy với người quản mộ đã vén màn cho những góc nhìn riêng tư về cố nghệ sỹ giữa đời thường – bà giản dị và khiêm cung, với cách sống giàu lòng nhân đạo như chính tâm hồn nghệ thuật của bà.

Trên đồi thông, mẫu tự

Trong cái nắng oi nồng và những cơn gió hiu hiu cuối giờ Ngọ, chú Thuyên cặm cụi nhặt những cành thông khô đang ngả xuống mộ phần như ngả rạ. “Đây là mùa thông rụng”, chú nói bằng sự thấu hiểu tự nhiên của một người đã nhặt thông trên đất mộ những gần 30 năm. Duyên may cho tôi gặp được chú – người quản mộ cho Điềm Phùng Thị, chồng bà lẫn mẫu thân bà.

Ký ức chú Thuyên vọng về một ngày mùa xuân năm 1995, khi chú lần đầu tiên gặp gỡ và giúp bà Điềm Phùng Thị tìm lại mộ mẹ mình. Bố mẹ bà Điềm thuộc tầng lớp trí thức: bố bà là ông Phùng Duy Cần, người gốc Hà Tĩnh, sau vào Huế làm quan triều Nguyễn, kết duyên với mẹ bà là một người phụ nữ hiền lương gốc Vỹ Dạ. Bởi có bố là một trong những người có đóng góp lớn cho việc xây lăng Khải Định trên triền núi Châu Chữ, nên gia đình bà Điềm đã có thời gian cư ngụ tại vùng này. Năm bà Điềm lên năm1, mẹ của bà rời xa cõi tạm, mộ đặt trên đất Châu Chữ. Oái ăm thay, đây lại là vị trí căn cứ cách mạng quan trọng của huyện Hương Thủy (nay là thị xã Hương Thủy) và thành phố Huế trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Chốn hoang vu bão đạn, dân thường ít ai dám vãng lai, nấm mộ đất cũng ngày một hoang tàn. “Lúc tôi tìm ra nấm mồ của mẹ bà Điềm, nó đã không còn nguyên vẹn nữa…”, chú Thuyên bồi hồi. Từ dạo ấy, chú Thuyên được bà Điềm tín cẩn, nhờ trông coi quá trình tôn tạo lại mộ của mẹ bà.

Nhà của chú ở bên này đường, thuộc địa phận làng Kim Sơn, sang bên kia đã là làng Châu Chữ. Cứ tản bộ lên triền đồi khắc sẽ gặp hai ngôi mộ: một của vợ chồng điêu khắc gia Điềm Phùng Thị, một của mẹ bà Điềm.

Nơi an táng vợ chồng Điềm Phùng Thị tọa lạc ở địa thế khá cao, rộng khoảng một trăm mét vuông, được xây bọc móng nền và rải đá xâm xấp ở bên trong. Ở trung tâm là mộ đôi với chất đá ong màu nâu đỏ. Năm 1997, sau lễ mai táng cho người chồng mới qua đời, bà Điềm vào tận Quảng Ngãi mua bằng được loại đá này, lại cẩn trọng dựng hình từ khi đá ở dưới lòng đất còn dẻo, sau đó đưa về Huế đẽo gọt hoàn chỉnh thành những mẫu tự kinh điển và lắp đặt thành hai mộ phần. Chồng bà nằm lại phía bên phải, trên bia đá khắc tự: “Bác sĩ nha khoa/ Nguyễn Phước Bửu Điềm/… Hiền thê: Phùng Thị Cúc/ tức: Điềm Phùng Thị/ phụng lập 1997”, còn bên trái là chốn an nghỉ của “Nhà điêu khắc/ Điềm Phùng Thị”.

Điểm nhấn của khu mộ là một tác phẩm điêu khắc bằng đá ong do chính nghệ sỹ Điềm Phùng Thị thiết kế, đặt trên thềm cấp phía sau mộ phần. Trái với phần mộ, tuy được lắp bằng các mô-đun nhưng vẫn mang tính ứng dụng, thì sự xuất hiện của một tác phẩm thị giác thuần tuý đã khiến cả khu mộ trở thành một công trình mang tiếng nói nghệ thuật hoàn chỉnh và thống nhất của điêu khắc gia Điềm Phùng Thị. Bức tượng khắc họa đôi vợ chồng; trong đó, tượng người vợ ở phía trước được xây thấp hơn người chồng, thể hiện nếp ứng xử truyền thống của nghệ sỹ Điềm Phùng Thị đối với chồng. Từ tác phẩm, ta thấy sự đồng hiện của những bản thể làm nên con người Điềm Phùng Thị: vừa là một người làm sáng tạo nổi tiếng, song cũng là một người vợ bình dị như bao người. Ngắm nhìn bức tượng là ngắm nhìn bản thể sáng tạo và bản thể xã hội (vai vế trong gia đình) của bà Điềm tổng hòa làm một, chứng thực cho tinh thần nhất quán mà bà đã thể hiện cả trong sáng tạo nghệ thuật lẫn trong suốt cuộc đời mình.

Khách viếng mộ một lần nữa có dịp tận kiến tâm hồn Điềm Phùng Thị ở ngôi mộ của mẹ bà – công trình mà tôi cho là ấn tượng hơn, với diện tích nhỏ hơn nhưng bao gồm một chỉnh thể điêu khắc chặt chẽ và toàn vẹn. Trên phần đất vuông vức là một cấu trúc vòng tròn gồm các nhân tượng được lắp ghép từ những mẫu tự kinh điển của nghệ sỹ. Tượng người mẹ được xây cao nhất, kết hợp tạo hình bát nhang, chung quanh là đàn con sum vầy, tạo cảm giác khăng khít và kính cẩn. Trong số những tác phẩm xoay quanh chủ đề tình mẫu tử, một chủ đề cố hữu của điêu khắc gia Điềm Phùng Thị, công trình này có hoàn cảnh sáng tác đặc biệt, có thể xem như món quà mà bà Điềm trực tiếp dành tặng cho người mẹ mà bà chỉ gắn bó trong năm năm đầu đời.

Lại nhớ trong một đoạn văn tự thuật, Điềm Phùng Thị từng hồi tưởng về một lần dạo bước trên đường phố Pháp, bà bắt gặp một người phụ nữ đã qua đời. Người phụ nữ ấy cuộn tròn người trên hè phố, tay ôm lấy một em bé sơ sinh đang ngây ngô chơi với nắm vú giả và những con giun bò ra từ miệng mẹ. Tình mẫu tử trong cuộc đời bà đã luôn hiện diện trong diễn cảnh éo le, gắn liền với chia ly, sinh tử. Nó trở thành nỗi ám ảnh sâu nặng, bủa vây bà trong những đêm trường xem vô tuyến ở nước Pháp, thao thức nghĩ về người lính ra trận và bà mẹ Việt Nam anh hùng ngậm đắng xa con… Đối diện với thực tế khắc nghiệt, Điềm Phùng Thị đã biến chúng thành chất liệu để đẽo nặn những nhân tượng đầu tiên với nỗi niềm yêu thương tha thiết. Bà đã ngoan cường tiến bước giữa hai mặt đối lập: cái “thấy” trong dòng đời rỉ máu, và cái “tạo sinh” trong nghệ thuật giàu khát vọng, yêu thương.

Tâm hồn Đông phương, phong cách Tây phương

Viếng mộ xong, tôi và chú Thuyên trở về nhà của chú. Chúng tôi ngồi trong gian phòng khách nhỏ, với chiếc tivi cũ, bộ bàn ghế sờn và độc một cốc trà mới rót. Thời gian chóng vánh trôi, tôi nỗ lực chớp lấy từng mảnh không gian mà mấy mươi năm trước, bà Điềm cũng từng hiện diện ở đấy, chuyện trò cùng chú trong một liên kết thâm tình sâu nặng.

“Sinh thời, bà Điềm Phùng Thị là một người như thế nào?”, tôi loay hoay mở lời. Chú đáp: “Cô Điềm thương người, lại giản dị, chất phác. Cô thích hoa dại, đi ngoài đường đội chiếc mũ vải, ăn mặc tuềnh toàng, nhìn vào chẳng ai biết là nghệ sỹ lớn trở về từ Âu châu”.

Nhiêu đấy là đủ để hình dung về lối sống bình dị của nghệ sỹ Điềm Phùng Thị. Bản thân bà Điềm tin cẩn chú Thuyên hẳn cũng vì tìm thấy ở chú một phẩm chất tương đồng. Năm 1995, trong quá trình xây lại mộ phần của mẹ, bà Điềm định sẽ thuê thợ nề đến thi công theo thiết kế do bà phác thảo sẵn, nhờ chú Thuyên giám sát. Thế mà chú Thuyên một mực từ chối. “Tôi nói cô Điềm là không được đâu, cô là nghệ sỹ lớn, chăm chút từng ly từng tý. Tôi hay thợ thuyền nhỡ đâu chưa hiểu ý, làm gì thiếu sót thì không hay”. Rốt cuộc, bà Điềm Phùng Thị nhờ đến ông Nguyễn Hiền, cán bộ khoa Điêu khắc của Trường Đại học Nghệ thuật Huế, đến tổ chức và giám sát thi công. Cũng sau lần đó, bà Điềm càng coi trọng sự chất phác trong con người chú Thuyên.

Bà Điềm thương chú như con cháu trong nhà, thường xuyên gọi chú về phụ việc ở địa chỉ số 1 Phan Bội Châu, thành phố Huế – một mảnh đất do chính quyền địa phương cấp tặng để làm nơi ở cho vợ chồng bà lúc bấy giờ, cũng như đặt xưởng và trưng bày các tác phẩm nghệ thuật (nay đã chuyển về Trung tâm Nghệ thuật Điềm Phùng Thị, số 17 Lê Lợi, thành phố Huế). “Những việc như dọn sân cắt cỏ, người lao động như mình làm một loáng là xong. Nhưng đó chỉ là cái cớ, chủ yếu là để tôi ăn uống đầy đủ, bớt nặng việc đồng áng, lại được thêm ít tiền dành dụm”. Mắt chú Thuyên như ánh lên tia sáng khi nhớ về một kỷ niệm với bà Điềm Phùng Thị. Một lần, đến giờ cơm trưa, người quản gia dọn khay cơm để chú Thuyên ăn ở lầu dưới. Nhưng bà Điềm một mực lắc đầu, bảo chú dùng bữa cùng bà, lại căn dặn quản gia phải nấu thêm khẩu phần cho chú Thuyên, vì “hắn lao động mệt, ăn khoẻ lắm”. Cách cư xử của bà Điềm khiến chú Thuyên cảm động. Hơn thế nữa, chú nhận ra ẩn trong lối sống giản dị, yêu thương ấy là một phong cách dứt khoát, bình đẳng và “rất Tây” của bà Điềm. Mồn một trong ký ức chú Thuyên là những ngày ngồi chung bàn tiệc với bạn hữu của nghệ sỹ lúc bấy giờ. Có thể kể đến nhà văn Bửu Ý, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà nghiên cứu Huế Nguyễn Đắc Xuân, v.v.. Ai nấy với nghệ sỹ đều là chỗ thân tình bình đẳng, không phân biệt cấp bậc, địa vị.

Một lần khác, khi hay tin con gái đầu của chú Thuyên phải bỏ học giữa chừng vì kinh tế gia đình không cho phép, bà giận lắm, quát lớn: “Sinh con được thì phải lo cho con ăn học được đàng hoàng”. Nói rồi, bà vời con chú Thuyên về Phan Bội Châu, lại cho người hàng tuần đến dạy học để con chú đọc thông viết thạo. “Ngay cả lúc cô Điềm mắng, tôi vẫn vui ở trong lòng, bởi tôi thấy cô mắng đúng chứ không sai. Mà phải công tâm, phải xem mình như người trong nhà, cô mới thẳng thắn nhắc nhở mình như thế”, chú Thuyên cảm kích.

Thế nên nhìn lại, bà Điềm là người đã thay đổi cuộc đời không chỉ của chú Thuyên, mà của cả gia đình chú. Ngồi bên chú trong gian phòng tiếp khách, tôi mân mê từng món đồ như tấm thiệp, lời mời dự triển lãm của bà Điềm mà chú Thuyên nâng niu như kỷ vật. Trong số đó có một tấm ảnh quý, chụp vào ngày khánh thành mộ của mẹ bà Điềm sau khi trùng tu. Tôi nhìn mải một người phụ nữ lạ đương đứng cạnh bà Điềm Phùng Thị, không tránh khỏi tò mò người phụ nữ ấy là ai. Chú bảo: “Là mẹ tôi. Cô Điềm nhất nhất mời cả mẹ tôi đến, cùng chụp một tấm ảnh”. Tâm hồn quảng đại của bà Điềm đã lay động chú Thuyên, để một người xa lạ như chú nguyện phụng sự, gắn bó với bà Điềm từ cõi tạm cho đến cõi âm, kể đến khi hơi tàn sức kiệt. Nghĩ về bà Điềm Phùng Thị lẫn nhìn vào chú Thuyên, tôi thấy sáng lên một tâm hồn chân phương, hướng thiện, luôn ứng xử cao đẹp giữa đời thường.

“Chào Thuyên, chào Thuyên, chào Thuyên…”

Tôi hỏi chú Thuyên có còn nhớ những ngày cuối đời của bà Điềm, trước khi bà đi về cõi vĩnh hằng. Chú lặng người. Năm 2001, chứng tai biến xảy đến đã giữ bà Điềm suốt một tháng trời trong bệnh viện. Ngày ra viện, tâm trí bà lãng đãng, lại phải ngồi xe lăn chứ không đi lại được. Tuy vậy, bà vẫn chăm chỉ làm việc cho đến quá giờ trưa. Khi tay chân không còn linh hoạt, bà chỉ đạo thợ làm tác phẩm theo hướng dẫn của bà.

“Thời điểm ấy, bà Điềm đã lẫn đi nhiều phần. Bà có nhớ ra chú Thuyên không?”, tôi hỏi. Được nghe, bà Điềm vẫn nhớ chú là ai nhưng dần lãng đi những chi tiết nhỏ, lắm khi trong một ngày “chào Thuyên” đến năm lần bảy lượt. Ngồi đối diện tôi, chú lẩm nhẩm theo những con chữ còn đọng trong tâm trí: “Chào Thuyên, chào Thuyên, chào Thuyên…”. Buồn thương thay, những lời chào vô tư lự lại là điềm báo cho ngày bà ra đi, nay thống thiết trong lòng người ở lại.

“Cô Điềm Phùng Thị là quý nhân phò trợ của đời tôi. Khác ở chỗ, quý nhân này không phải người cõi trên mà là người trần mắt thịt. Cô cho tôi nghị lực cuộc sống, để tôi thấy mình còn sống được ở đời”.  

Những ngày tháng Tám, gió nổi giữa trời trưa. Chú Thuyên dắt tôi lên đồi viếng mộ nghệ sỹ Điềm Phùng Thị, lòng vẫn nặng nỗi bùi ngùi từ hơn hai mươi năm trước. Cứ mỗi lần lên mộ, ký ức chú lại hiện về cảnh một chiếc xe taxi dừng trước cửa nhà và cái bóng chú hối hả chạy ra, toan đỡ lấy một người phụ nữ ngồi xe lăn, từ tốn dìu bà lên đồi viếng chồng, viếng mộ mẹ mình…

Art Nation

Art Nation là ấn phẩm nghệ thuật song ngữ duy nhất và hàng đầu tại Việt Nam. Với đội ngũ biên tập chuyên nghiệp, chúng tôi mang đến những ấn phẩm chất lượng cao, hướng đến sứ mệnh lan tỏa giáo dục nghệ thuật cho công chúng.

Bài viết liên quan

Hình vang vọng ý – Đối thoại với Tô Ngọc Vân

Triển lãm “Hình vang vọng ý” diễn ra từ 18 tháng 10 tới 02 tháng 11 năm 2025, đồng tổ chức bởi Phù Sa Art Foundation và Lân Tinh Foundation.

Đi đâu dựng rạp, sáng đèn

“Sài Gòn có nhiều sân khấu kịch hơn ta tưởng tượng. Rạp hát có thể ít, nhưng sân khấu thì ở khắp mọi nơi”

Karaoke với người xa quê

Quỳnh Đồng được biết đến với các thực hành chuyển hóa cực thực thành siêu thực thông qua các biểu hiện cực sến nhằm làm mới lại các khái niệm về thẩm mỹ sáo rỗng.

Ấn phẩm