Sài Gòn-Gia Định 1954–1975: Sóng ở trời Nam

Uyên Huy (tên thật Huỳnh Văn Mười) sinh năm 1950 và lớn lên tại mảnh đất Sài Gòn-Gia Định, tốt nghiệp từ trường Trang trí Mỹ thuật Gia Định và Trường Mỹ thuật Quốc gia Sài Gòn, sau đó tiếp tục giảng dạy tại Trường Quốc gia Trang trí Mỹ thuật Gia Định (từ năm 1974 đến 30 tháng 4 năm 1975) và trường Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh (1975–2010) trong vai trò Trưởng khoa Hội họa và khoa Mỹ thuật Ứng dụng. Thầy Mười là chứng nhân sống của một thời kỳ lịch sử biến động với những câu chuyện, chia sẻ cá nhân đầy chân thật và sống động về nền mỹ thuật Sài Gòn-Gia Định 1954–1975.
Chân dung họa sỹ Uyên Huy. Ảnh: AZ Gallery.

Nền mỹ thuật Sài Gòn-Gia Định trong khoảng 1954–1975 là một dòng chảy lịch sử riêng biệt, vừa tiếp nối tinh thần, truyền thống dân tộc, vừa đón nhận và chuyển hóa tinh hoa của mỹ thuật phương Tây, tạo nên một diện mạo đặc sắc trong bức tranh toàn cảnh của mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Có thể nói, chính sự ra đời của trường Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân của Trường Đại học Mỹ thuật TP.HCM) đã vun đắp và nuôi dưỡng nền mỹ thuật Sài Gòn-Gia Định. Trường ra đời với mục tiêu đào tạo các họa sỹ làm việc trong lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng và mỹ thuật tạo hình. Đáng chú ý, từ sau Hiệp định Geneva năm 1954, trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn được thành lập và xây dựng bên cạnh trường Trang trí Mỹ thuật Gia Định nhằm thay thế cho EBAI ở Hà Nội, vốn đã bị dội bom vào năm 1943 bởi không quân Đồng Minh trong thế chiến thứ hai và đóng cửa từ năm 1945.

Trường Trang trí Mỹ thuật Gia Định (École des Arts décoratif de Gia Dinh) 1946. Nguồn: Uyên Huy, “Mỹ thuật Đô thị Sài Gòn-Gia Định 1900-1975”, NXB Mỹ thuật, 2014.
Trường Trang trí Mỹ thuật Gia Định (École des Arts décoratif de Gia Dinh) 1960.
 Nguồn: Uyên Huy, “Mỹ thuật Đô thị Sài Gòn-Gia Định 1900-1975”, NXB Mỹ thuật, 2014.

Xin thầy tóm tắt về hệ thống đào tạo mỹ thuật tại Sài Gòn-Gia Định từ sau 1954?

Về góc độ lý luận đào tạo, từ năm 1954 đến năm 1971, hệ thống đào tạo mỹ thuật Sài Gòn-Gia Định, hay rộng hơn là miền Nam đã hoàn chỉnh, bao gồm hai lĩnh vực: mỹ thuật ứng dụng (gồm ba trường: trường Mỹ nghệ Thủ Dầu Một – đào tạo chuyên ngành gỗ và sơn mài, trường Mỹ nghệ Biên Hòa – đào tạo chuyên ngành gốm sứ và đúc đồng, và trường Trang trí Mỹ thuật Gia Định – đào tạo chuyên ngành trang trí, ấn loát và kiến trúc) và mỹ thuật tạo hình (Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn và Trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế). Các giáo sư mỹ thuật miền Nam vừa có nền tảng vững chắc về mỹ thuật ứng dụng – được đào tạo từ các trường mỹ thuật ứng dụng ở miền Nam, vừa tiếp thu các kiến thức về mỹ thuật tạo hình phương Tây cổ điển do họ được cử đi học về mỹ thuật tạo hình tại EBAI ở miền Bắc.

Môi trường sống ở Sài Gòn-Gia Định trong khoảng 1954–1975 với xu hướng kinh tế thị trường, tự do, cùng văn hóa-nghệ thuật mở rộng, đa dạng có tác động ra sao đến hoạt động sáng tạo của giới họa sỹ ở đây?

Trong khoảng 1954–1975, Sài Gòn-Gia Định có khuynh hướng chấp nhận tiếp thu tất cả các trường phái sáng tác và tư tưởng nghệ thuật, từ Tân Cổ điển đến Hiện đại. Thế nên, có sự phân hóa rất lớn giữa nhiều luồng tư tưởng nghệ thuật tại đây. Nghệ sỹ thể hiện cảm xúc của mình ở mọi trạng thái, kể cả bị cho là ủy mị hay tiêu cực. Vậy nên các tác phẩm thể hiện cảm xúc có những nét chân thành và riêng tư. Nghệ sỹ Sài Gòn-Gia Định thiên về diễn tả nghệ thuật thoải mái như hơi thở, chứ không mạnh về tuyên truyền cổ động mang tính chính trị.

“Trong khoảng 1954–1975, Sài Gòn-Gia Định có khuynh hướng chấp nhận tiếp thu tất cả các trường phái sáng tác và tư tưởng nghệ thuật, từ Tân Cổ điển đến Hiện đại.” 

Ngoài nghệ thuật tự do – chịu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản và tiếp nhận hầu hết các ngôn ngữ của nghệ thuật hiện đại – nghệ thuật cách mạng tại Sài Gòn-Gia Định giai đoạn này như thế nào?

Tại khu vực Sài Gòn-Gia Định, các hình thái nghệ thuật được lưu hành công khai, gồm: nghệ thuật vị nghệ thuật (chỉ quan tâm đến cái đẹp thuần túy, với nhiều trường phái nghệ thuật: Hiện thực, Ấn tượng, Tượng trưng, Lập thể, Siêu thực, Dã thú, v.v.), nghệ thuật phản chiến ủy mị (diễn tả nỗi buồn chiến tranh, thể hiện rõ trong văn học và âm nhạc), nghệ thuật thương mại và nghệ thuật tuyên truyền (do bộ phận Tâm lý chiến-Chiến tranh Chính trị của quân đội Sài Gòn thực hiện). Nghệ thuật cách mạng là thuật ngữ dùng để nói đến toàn bộ các hoạt động sáng tác nghệ thuật thị giác, chủ yếu phục vụ cho cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, chính quyền tay sai để giải phóng dân tộc, giành độc lập, thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Ở đó, nghệ sỹ là chiến sỹ, còn tác phẩm nghệ thuật là vũ khí đấu tranh chính trị.

Các lớp mỹ thuật trong chiến khu cũng được thành lập và đáp ứng cho nhu cầu kháng chiến. Lớp hội họa đầu tiên trong chiến khu được mở ra tại Bến Tre, do sự chỉ đạo của Ban Tuyên huấn Trung Nam Bộ-Khu 8. Huỳnh Phương Đông – sinh viên Trường Mỹ thuật Ứng dụng Gia Định khóa 1941–1945 – được xem là người mở đầu cho lực lượng quản lý và giảng dạy các lớp hội họa trong chiến khu. Từ năm 1960, khi Mặt trận Giải phóng miền Nam ra đời, nhiều họa sỹ thoát ly vào chiến khu. Đặc biệt, tại Sài Gòn-Gia Định, Trường Trang trí Mỹ thuật Gia Định và Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn được xem là chiếc nôi của những họa sỹ cách mạng nổi tiếng, bao gồm Cổ Tấn Châu Long, Nguyễn Văn Kính, Nguyễn Ngọc San, Nguyễn Văn Thép, Mai Thành Hưởng, Hà Văn Đức, v.v.

Huỳnh Phương Đông, “Trận địa trong đám lá” (1970), màu nước trên giấy, 38,2 cm x 54 cm. Ảnh: Bonhams.
Huỳnh Phương Đông, “Bám trụ vùng ven” (1969), màu nước trên giấy, 38,8 cm x 54,2 cm. Ảnh: Bonhams.

Hội họa sỹ Trẻ chịu ảnh hưởng chút ít của nhóm Sáng Tạo – nhóm văn nghệ sỹ di cư từ miền Bắc vào miền Nam sau Hiệp định Geneva năm 1954, tập trung ở Sài Gòn-Gia Định. Hội viên hội này đến từ bốn nguồn, gồm: họa sỹ từ Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn, họa sỹ du học trở về Việt Nam, họa sỹ nghiệp dư, tự học và những mạnh thường quân. Riêng nhóm họa sỹ nghiệp dư thì bạo gan; họ tự cho rằng những nghệ sỹ di cư đang đưa tư tưởng đổi mới, sáng tạo thực sự vào truyền bá, phổ biến cho nhóm nghệ sỹ Sài Gòn-Gia Định. Họ phủ định tính chất hàn lâm, trường quy. Nhóm này liệt những họa sỹ có các sáng tác giống các thầy đã dạy ở EBAI và trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn vào “nhóm họa sỹ trường Ốc”[1].

Trên con đường sáng tạo nghệ thuật hay quá trình hình thành cái tôi riêng của nghệ sỹ, sự “phủ định” những tri thức hàn lâm kinh điển là điều cần thiết. Ngoài phạm vi nhà trường, sự đột phá của Hội họa sỹ Trẻ đầy nhiệt huyết, thể hiện sự tự do và dân chủ trong hoạt động mỹ thuật. Chính họ đã tạo nên bước ngoặt cần thiết cho nền mỹ thuật tạo hình Việt Nam. Điều này không ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên, xét về góc độ đào tạo, sự “phủ định” ấy phải trải qua quá trình thực hành, đối chiếu và rút kinh nghiệm. Không thể thiếu quá trình nghiên cứu, thể nghiệm và trải nghiệm thật thấu đáo.

[1] Nói đến các họa sỹ theo phong cách hàn lâm, trường quy, chậm thay đổi.

Đỗ Quang Em, “Chân dung Nguyễn Thị Thanh Nhàn” (1971), sơn dầu trên toan, 99 cm x 78,8 cm. Ảnh: Sotheby’s.

Các cuộc triển lãm, giải thưởng mỹ thuật tại Sài Gòn-Gia Định ở giai đoạn này như thế nào?

Các công ty kinh doanh dầu khí nước ngoài của Pháp và Mỹ đặt trụ sở chính tại Sài Gòn đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực mỹ thuật và tổ chức nhiều giải thưởng mỹ thuật lớn có uy tín và giá trị. Điều này đã làm cho không khí sáng tác mỹ thuật ở vùng đô thị Sài Gòn trở nên sôi động. Nhiều họa sỹ tên tuổi của mỹ thuật Sài Gòn-Gia Định bước ra từ những cuộc thi. Có thể kể đến một số giải thưởng tiêu biểu: “Giải thưởng Hội họa in lịch Stanvac” do công ty xăng dầu Caltex tổ chức (các tác phẩm được trao giải sẽ được chụp ảnh để in lịch treo tường mỗi năm của công ty) và “Giải thưởng Hội họa Esso” do công ty xăng dầu Esso tổ chức.

Ngoài ra, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cũng có các giải thưởng tôn vinh các tác phẩm văn hóa-nghệ thuật xuất sắc. Dưới thời kỳ Tổng thống Ngô Đình Diệm, hằng năm đều có giải thưởng “Hội họa mùa Xuân” do Văn hóa Vụ tổ chức (tương đương Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm ngày nay). Đến thời kỳ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, giải thưởng “Hội họa mùa Xuân” chấm dứt và được thay thế bằng giải thưởng “Văn học Nghệ thuật Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa”, mở rộng thêm nhiều lĩnh vực trao thưởng bên cạnh mỹ thuật. Giải thưởng này do Phủ Quốc vụ Khanh đặc trách Văn hóa tổ chức và điều hành. Đặc biệt, vào tháng 6 năm 1966, nhân kỷ niệm 20 năm thành lập tổ chức UNESCO (Tổ chức về Giáo dục, Khoa học và Văn học Liên Hiệp Quốc), một cuộc triển lãm và trao thưởng của UNESCO đã được tổ chức tại phòng Thông tin-Văn hóa Đô Thành.

Các hoạt động triển lãm, trưng bày mỹ thuật diễn ra sôi nổi, chủ yếu tập trung tại Sài Gòn và thường được tổ chức tại Tòa Đô Chính Sài Gòn (nay là trụ sở Ủy ban Nhân dân TP.HCM), Nhà hát Lớn Sài Gòn (nay là Nhà hát lớn TP.HCM), phòng Thông tin-Văn hóa Đô Thành (nay là khu nhà góc trái trước Nhà hát Lớn TP.HCM), phòng tranh La Dolce Vita (bên trong khách sạn Continental), phòng tranh Pháp Văn Đồng Minh Hội (Alliance Française), phòng tranh thuộc Thư viện Quốc gia Sài Gòn (nay là Thư viện Tổng hợp TP.HCM), phòng tranh thuộc Trung tâm Văn hóa Pháp, phòng tranh thuộc trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn, Hội Việt-Mỹ, v.v. Đáng chú ý, năm 1962 diễn ra cuộc triển lãm quốc tế lần thứ nhất tại Sài Gòn. Đây là một sự kiện quan trọng, quy tụ trên 20 quốc gia nhân dịp lễ Quốc khánh Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa (26 tháng 10). Cũng trong năm này, Việt Nam Cộng Hòa đạt giải thưởng danh dự trong cuộc triển lãm quốc tế sinh viên mỹ thuật được tổ chức hằng năm tại Rome, Ý. Năm 1963, trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn đạt huy chương bạc do Bộ Ngoại giao Ý trao tặng vì trường xếp hạng nhì trong 25 quốc gia có tác phẩm trưng bày trong cuộc triển lãm quốc tế sinh viên mỹ thuật tại Rome.

Xưởng Thành Lễ, “Cò trắng” (khoảng 1965), bình phong sơn mài, 10 tấm, mỗi tấm 180 cm x 35 cm. Ảnh: Sotheby’s.

Thị trường mỹ thuật Sài Gòn-Gia Định giai đoạn này có sôi động không?

Thị trường mỹ thuật miền Nam nói chung và Sài Gòn-Gia Định nói riêng giai đoạn 1954–1975 phát triển rất mạnh mẽ nhờ các yếu tố sau. Thứ nhất, từ thời Pháp thuộc, các sản phẩm thủ công, mỹ nghệ đã tồn tại trong nền kinh tế thị trường sơ khai – đang dần chuyển mình sang nền kinh tế tư bản, mà ở đó có sự tương tác, trao đổi, mua bán vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính thỏa thuận giữa giới tư bản thực dân và lực lượng lao động mỹ thuật. Thứ hai, các trung tâm đào tạo về nghệ thuật thủ công và trang trí đã xuất hiện ở đây từ đầu thế kỷ 20, phát triển cả về quy mô trường lớp và nội dung đào tạo. Thứ ba, từ năm 1920 đến năm 1954, ở miền Nam có nhiều hội chợ hàng trang trí mỹ nghệ quốc tế và nội địa, giới thiệu các sản phẩm mỹ nghệ chất lượng cao được gửi tham dự từ các trường mỹ nghệ miền Nam. Thứ tư, từ năm 1936 đến năm 1975, số lượng phòng tranh tại miền Nam có thể được xem là nhiều nhất cả nước, tạo một cầu nối quan trọng giữa nghệ nhân, nghệ sỹ và thị trường. Mặc dù tại Sài Gòn thời ấy chưa có hệ thống nhà sưu tập tranh, nhưng khách vãng lai quốc tế là một lực lượng hùng hậu (châu Âu, Mỹ và các nước đồng minh tham chiến). Một ví dụ điển hình chính là sự kiện vua dầu khí Mỹ là Rockefeller đã tìm đến nhà họa sỹ Tú Duyên để mua dòng tranh Thủ ấn họa của ông. Thứ năm, hệ thống các cuộc thi, giải thưởng mỹ thuật hằng năm do chính quyền miền Nam và giới tư sản nước ngoài tổ chức cũng thúc đẩy việc buôn bán, sưu tập tác phẩm nghệ thuật và ứng dụng chúng vào đời sống. Thứ sáu, việc quy hoạch đô thị của Pháp và Mỹ đã thúc đẩy đô thị phát triển với các công trình dân dụng, từ đó dẫn đến nhu cầu trang trí nội-ngoại thất thông qua việc mua sắm các sản phẩm nghệ thuật, mỹ nghệ được sản xuất tại bản địa.

Ngoài ra, hệ thống xuất-nhập khẩu hàng trang trí nội-ngoại thất, hàng mỹ nghệ đã xuất hiện. Nguồn hàng xuất khẩu ổn định, đều đặn đến từ công ty sơn mài Thành Lễ, Mê Linh, làng nghề sơn mài Bình Dương (Tương Bình Hiệp) và các lò gốm ở Bình Dương, Lái Thiêu, Biên Hòa. Nói chung, giới mỹ thuật thời này sống được bằng việc sáng tác từ mỹ thuật tạo hình đến mỹ thuật ứng dụng.

“Giới mỹ thuật thời này sống được bằng việc sáng tác từ mỹ thuật tạo hình đến mỹ thuật ứng dụng.” 

Thật là một chương lịch sử mỹ thuật vô cùng phong phú và độc đáo. Xin chân thành cảm ơn thầy vì đã dành thời gian chia sẻ!

Bài: Hùng Nguyễn

Art Nation

Art Nation là ấn phẩm nghệ thuật song ngữ duy nhất và hàng đầu tại Việt Nam. Với đội ngũ biên tập chuyên nghiệp, chúng tôi mang đến những ấn phẩm chất lượng cao, hướng đến sứ mệnh lan tỏa giáo dục nghệ thuật cho công chúng.

Bài viết liên quan

Hình vang vọng ý – Đối thoại với Tô Ngọc Vân

Triển lãm “Hình vang vọng ý” diễn ra từ 18 tháng 10 tới 02 tháng 11 năm 2025, đồng tổ chức bởi Phù Sa Art Foundation và Lân Tinh Foundation.

Đi đâu dựng rạp, sáng đèn

“Sài Gòn có nhiều sân khấu kịch hơn ta tưởng tượng. Rạp hát có thể ít, nhưng sân khấu thì ở khắp mọi nơi”

Karaoke với người xa quê

Quỳnh Đồng được biết đến với các thực hành chuyển hóa cực thực thành siêu thực thông qua các biểu hiện cực sến nhằm làm mới lại các khái niệm về thẩm mỹ sáo rỗng.

Ấn phẩm