Những giá trị thẩm mỹ và tinh thần vĩnh cửu

Truyền thống nghệ thuật là một mạch chảy xuyên thời gian, ở đó, những biệt hiệu thẩm mỹ được tiếp nối, tạo nên những thời kỳ nghệ thuật. Tuy nhiên, biến cố lịch sử cũng có thể nắn dòng, rẽ hướng vận động nghệ thuật. Và sự hồi sinh còn nhờ bản lĩnh nghệ sỹ-nội lực sáng tạo qua mỗi thời kỳ.

Hình thành nhờ sự ra đời của Trường Mỹ thuật Đông Dương (1924), mỹ thuật hiện đại Việt Nam trải gần 100 năm vận động và phát triển, qua những thăng trầm lịch sử, qua chiến tranh khốc liệt, qua đổi thay của tiếp biến văn hóa, qua những dịch chuyển thẩm mỹ và quan niệm nghệ thuật. Để viết nên chương sử của riêng mình và đi tới hòa nhập với văn minh nhân loại, nghệ thuật hiện đại Việt Nam đã đi qua những chuyển đoạn nỗ lực, đi qua những khúc quanh và nhánh rẽ trong ứng xử thẩm mỹ, đối thoại bình đẳng mang tính nhân văn trước hiện thực.

Nguyễn Sáng, “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” (1963), sơn mài trên gỗ, 112,3 x 180 cm. Tác phẩm thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và đã được công nhận là Bảo vật quốc gia.

Đóng góp vào thành tựu chung có công lao của nhiều thế hệ nghệ sỹ, từ những người khởi sinh, đặt, tạo nền móng cho nghệ thuật hiện đại, mà ngay ở thời sinh viên, họ đã làm nên thành quả đột phá trên chất liệu sơn mài, hình thành bước ngoặt đầu tiên cho hội họa Việt Nam trên con đường tìm về cội nguồn thẩm mỹ. Lịch sử cũng ghi nhận những nỗ lực tìm kiếm mới của họ được thể hiện ban đầu qua bút pháp hội họa hiện đại: Dã thú, Lập thể, Biểu hiện. Điều đó bộc lộ trí tuệ mẫn cảm Việt Nam, khát vọng tìm đường cùng những trăn trở về số phận nghệ thuật dân tộc của những người tiên phong. Ý chí ấy như một mạch ngầm di sản, sẵn sàng cho sự kế thừa tất yếu.

Đồng hành cùng thế kỷ nghệ thuật, Nguyễn Sáng (1923–1988) và những người cùng thời với ông đã có nhiều đóng góp quyết định ở những chuyển đoạn quan trọng. Thuộc lớp sinh viên cuối cùng (1940–1945) của Trường Mỹ thuật Đông Dương, họ đồng thời thuộc thế hệ nghệ sỹ cách mạng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong tư cách công dân-nghệ sỹ-chiến sỹ, họ tham dự trực tiếp vào công cuộc kháng chiến, dấn thân cách mạng và nghệ thuật, gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Trong cả tình thế chiến tranh gian khổ, các nghệ sỹ vẫn tạo ra được những tác phẩm vừa mang tính tuyên truyền cụ thể, vừa chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Nhưng những ghi chép, nguồn tư liệu quý giá được tích lũy qua bao nẻo đường kháng chiến của họ mới là nguồn tài sản cho các sáng tạo xuất sắc sau hai thập kỷ.

Cống hiến của Nguyễn Sáng và thế hệ của ông, chủ yếu ở giai đoạn mỹ thuật hiện thực, qua tiếp xúc với phương pháp sáng tác Hiện thực Xã hội Chủ nghĩa, một khuynh hướng ảnh hưởng đến nghệ thuật Việt Nam từ giữa thế kỷ 20 và kéo dài nhiều thập kỷ sau đó. Tiếp xúc với nghệ thuật Hiện thực Xã hội Chủ nghĩa là cuộc tiếp xúc thứ hai của mỹ thuật hiện đại Việt Nam với thế giới (sau tiếp xúc với nghệ thuật Pháp). Có thể coi đây là lần thứ hai, nghệ thuật hiện đại Việt Nam tiếp xúc với “những giá trị hàn lâm”, vốn có sự đồng nhất về quan niệm, đồng dạng thẩm mỹ và phương pháp sáng tác dựa trên giá trị mô phỏng, lấy sự miêu tả làm căn cứ. 

Nguyễn Sáng, “Mèo” (1983), sơn mài. Trong một bộ sưu tập tư nhân tại TP. HCM.

Không xa lạ với giá trị kinh viện và trực tiếp thừa hưởng tri thức từ lớp người đi trước, Nguyễn Sáng và các đồng nghiệp của ông sớm nhận ra những hạn chế, bất cập của những khuôn thước thẩm mỹ ấy. Khi hình thức cũ không thể chứa đựng được nội dung mới, “cuộc tiểu cách mạng trong hình thức” (theo cách gọi của họa sỹ, nhà lý luận phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân) đã xảy ra như một tất yếu ở các họa gia thế hệ Mỹ thuật Đông Dương cuối cùng này, để làm nên tinh hoa của nghệ thuật Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Họ ảnh hưởng nhiều đến lớp sau, không chỉ bởi bút pháp hiện đại hơn mà còn bởi phẩm cách nghệ sỹ của họ. 

Thành tựu của họ là sự đột phá qua những ngã rẽ tìm đường của cái nhìn thẩm mỹ, là tinh thần đổi mới ngôn ngữ, đổi mới cách tiếp cận và biểu đạt nghệ thuật. Ý thức ấy đã chi phối toàn bộ quá trình thể nghiệm ở từng tác giả, kiên định và mạo hiểm trong thời gian dài, đo bằng nhiều thập kỷ.

Nguyễn Sáng chọn trở lại với cái đẹp mộc mạc, chân tình của nghệ thuật dân gian, tìm thấy ở đó sự thuần phác, dung dị, gần gũi với tâm hồn mình. Ông cũng tìm ở hội họa Picasso sự tương đồng trong những xúc cảm mạnh mẽ. Và ông kết hợp cả hai nguồn năng lượng ấy trong không gian tác phẩm của mình, tạo nên một cá tính nghệ thuật độc đáo.

Bên cạnh đó, Nguyễn Tư Nghiêm (1918–2016) trở về những định ước thẩm mỹ nguồn cội Việt Nam, và ung dung, tự tại trong cái nhìn mới về quá khứ, định vị nghệ thuật của mình trong cái linh diệu phương Đông. Ông từng nói: “Tôi không gắn bó với nghệ thuật nước ngoài nào cả, tôi chỉ tìm nơi dân tộc và thấy ở dân tộc có nhân loại và hiện đại”. Bùi Xuân Phái (1920–1988) tìm thấy ở hội họa trường phái Paris sự đồng điệu tâm hồn trong những hoài niệm cố hương. Còn Dương Bích Liên (1924–1988) là một biệt lệ. Ông kiên định đến cùng với cái nhìn thị giác, thấy ở đó sự sang trọng, tôn nghiêm và lấy nó để biểu đạt những triết lý nhân sinh trong độc thoại lẻ loi của mình.

Nguyễn Tư Nghiêm, “Gióng” (1990), sơn mài trên gỗ, 90 x 120,3 cm. Tác phẩm  thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và đã được công nhận là Bảo vật quốc gia.

Như vậy, qua họ và nhờ những thành tựu, phát kiến của họ, những định kiến trước đây dần được gỡ bỏ. Giá trị di sản tinh hoa nhân loại và truyền thống được nhìn nhận lại. Hiện thực được hiểu với đúng bản chất và vai trò của cá nhân nghệ sỹ được xác định rõ nét hơn.

Sự nghiệp và thành tựu nghệ thuật của các danh họa Việt Nam được khẳng định qua việc Hội Nghệ sỹ tạo hình Việt Nam (nay là Hội Mỹ thuật Việt Nam) công bố những triển lãm cá nhân lần đầu tiên của họ, từ trước thời điểm có chính sách Đổi mới (năm 1986): Nguyễn Sáng và Bùi Xuân Phái trong năm 1984, Nguyễn Tư Nghiêm trong năm 1985. Các triển lãm này trở thành những sự kiện văn hóa nổi bật ở thời điểm đó, gây tiếng vang ngoài phạm vi mỹ thuật, được coi như sự kiện mở đầu của đổi mới mỹ thuật. 

Nhân cơ hội đó, Hội Nghệ sỹ tạo hình Việt Nam tiếp tục tổ chức Trại sáng tác Đại Lải năm 1986 với nhiều thể nghiệm thành công của 40 tác giả thuộc ba thế hệ, gây xôn xao dư luận trong giới; 16 tác giả khác tự tổ chức triển lãm cá nhân tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và kế tiếp là hàng loạt các hoạt động khác do Hội Nghệ sỹ tạo hình Việt Nam tổ chức… Tất cả đã tạo nên làn sóng của những thể nghiệm mới cả ở ngôn ngữ thẩm mỹ cũng như cách thực hiện một hoạt động nghệ thuật, đưa nghệ thuật Việt Nam bước sang một thời kỳ mới, một quỹ đạo mới của chuyển động nghệ thuật. Đây được xem như gối đầu hai thời kỳ hiện đại và đương đại của mỹ thuật Việt Nam, hay nói cách khác: Thập kỷ 80 được coi là giai đoạn bản lề quan trọng của đổi mới mỹ thuật.

Dương Bích Liên, “Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc” (1980), sơn mài trên gỗ, 99,8 x 180 cm. Tác phẩm thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và đã được công nhận là Bảo vật quốc gia.

Vai trò và đóng góp của những cá nhân xuất sắc được ghi nhận qua những giải thưởng xứng đáng của Nhà nước: Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái và Dương Bích Liên đều được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Họ đã là một phần của lịch sử nghệ thuật với tên tuổi cụ thể và tác phẩm mang tầm Bảo vật quốc gia. Những giá trị tinh thần từ họ sẽ còn mãi trên bước đường đi tới của nghệ thuật.

Nhìn mới lịch sử, ta có thể nhận được từ quá khứ những giá trị đọng lại, những bài học được, mất từ nó. Bởi dẫu có thay đổi tới đâu và ở thời đại nào, nghệ thuật vẫn là sự có mặt của con người trong ứng xử nhân văn và xã hội, và bởi cũng còn đó những tồn tại nghệ thuật, còn đó những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển, còn đó cả những mặc cảm và ngộ nhận nghệ thuật.

Giá trị cống hiến của Nguyễn Sáng và những nghệ sỹ cùng thế hệ với ông gói gọn trong ý nghĩa ấy.

Bài: Đặng Thị Khuê
Chuyển ngữ: Hương Trà

Art Nation

Art Nation là ấn phẩm nghệ thuật song ngữ duy nhất và hàng đầu tại Việt Nam. Với đội ngũ biên tập chuyên nghiệp, chúng tôi mang đến những ấn phẩm chất lượng cao, hướng đến sứ mệnh lan tỏa giáo dục nghệ thuật cho công chúng.

Bài viết liên quan

Lao động văn hóa và những bất mãn

Triển lãm “Phương tiện sản xuất” được tổ chức và giám tuyển bởi Lunch Hour, diễn ra từ ngày 18 tháng 5 đến 31 tháng 7 năm 2024.

Ấn phẩm