
Phoebe Scott là Giám tuyển Cấp cao và Giám tuyển Ấn phẩm Nghiên cứu tại Phòng Trưng bày Quốc gia Singapore. Các dự án trước đây của cô bao gồm “Vàng son Rực rỡ: Đối thoại Tranh Sơn mài Việt Nam” năm 2017 tại Phòng Trưng bày Quốc gia Singapore; “Tái khung Hiện đại: Tranh châu Âu, Đông Nam Á và xa hơn nữa” năm 2016, và “Giữa Tuyên ngôn và Mơ ảo: Nghệ thuật Đông Nam Á từ Thế kỷ 19” trong khoảng năm 2015 đến nay. Cô nhận bằng Tiến sỹ về Lịch sử và Lý luận Nghệ thuật từ Đại học Sydney với chuyên môn về nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Cô hiện cũng là Giảng viên Thỉnh giảng chuyên ngành Lịch sử Nghệ thuật tại Đại học Quốc gia Singapore.
Xin chúc mừng thành công vang dội của triển lãm đột phá “Thành phố Ngoại lai: Nghệ sỹ châu Á tại Paris trong các thập niên 1920–1940”! Đây quả thực là một trong những khảo sát toàn diện nhất về lịch sử nghệ thuật Paris qua lăng kính Á Đông. Chị có thể chia sẻ với độc giả Art Republik về ý tưởng giám tuyển và cơ sở lý luận đằng sau những phần khác nhau trong triển lãm này không?
Xin cảm ơn sự nhiệt tình của anh đối với “Những thành phố Ngoại lai”. Quá trình giám tuyển diễn ra trong nhiều năm vì chúng tôi đã bắt đầu nghiên cứu triển lãm từ 2019! Chúng tôi rất vui mừng vì cuối cùng cũng có thể chia sẻ triển lãm này với công chúng. Đây là công trình lớn, trưng bày hơn 220 tác phẩm nghệ thuật gồm hội hoạ, điêu khắc, sơn mài, nghệ thuật trang trí, cộng thêm 200 bộ lưu trữ hoặc hình ảnh lưu trữ, được chia làm bảy phần, trải trong ba không gian triển lãm.
Mục tiêu chính của chúng tôi khi thực hiện triển lãm này là “tái quy hoạch” lại Paris qua góc nhìn của những nghệ sỹ châu Á làm việc hoặc trưng bày tác phẩm tại đây từ thập niên 20 đến 40 của thế kỷ trước. Khi đến trải nghiệm triển lãm, khách tham quan sẽ không thấy những phong cách nghệ thuật quen thuộc như thường xem trong sách giáo khoa về nghệ thuật hiện đại. Thay vào đó, họ sẽ thấy được những phân khúc trong thế giới nghệ thuật thú vị và có ý nghĩa (thậm chí là sinh lời!) đối với các nghệ sỹ châu Á tại Paris vào thời điểm đó.
Triển lãm mở đầu với phần “Đầu đề” gồm các bức chân dung, chủ yếu là chân dung tự hoạ, của những nghệ sỹ này trong thời kỳ họ ở Paris. Phần này giúp ta thấy cách họ giới thiệu bản thân với thế giới, qua đó truyền tải tính hiện đại cũng như tham chiếu nguồn gốc Á Đông của mình. Sau đó, ta chuyển sang phần “Công xưởng Thế giới”, cho thấy các nghệ sỹ và nghệ nhân châu Á đã tham gia vào quá trình phát triển của nghệ thuật trang trí tại Paris. Màu sắc và những điểm nhấn hoàn thiện không gian triển lãm gợi nhớ đến lớp mạ vàng và sơn mài vốn rất phổ biến vào thời kỳ đó.
Phần tiếp theo, “Nhà hát Thuộc địa”, kể về các triển lãm, phòng trưng bày và địa điểm triển lãm tại Paris đặc biệt dành riêng cho các nghệ sỹ đến từ các xứ thuộc địa, bao gồm cả Đông Dương thuộc Pháp. Đây là một di sản phức tạp vì các tác phẩm nghệ thuật này thường được trưng bày trong khuôn khổ tuyên truyền của nhà nước thực dân, đặc biệt tại các sự kiện như Đấu xảo Thuộc địa 1931. Thế nhưng, đối với các nghệ sỹ đến từ Việt Nam, đây cũng là cơ hội trình diễn tác phẩm của họ trên sân khấu thế giới. Chất lượng của các tác phẩm nghệ thuật Việt Nam được trưng bày tại Paris lúc đó cho thấy sự nghiêm túc của họ khi đón nhận cơ hội này. Đối với độc giả Art Republik, triển lãm này là một cơ hội hiếm có để chiêm ngưỡng các tuyệt tác Việt Nam nằm trong các bộ sưu tập tư nhân hay được lưu giữ tại các bảo tàng Pháp – nay được “quy về một mối” tại châu Á! Song song với phần này, chúng tôi cũng có một gian trưng bày mang tên “Viễn cảnh và Sân khấu” về trải nghiệm của các vũ công châu Á tại Paris cùng thời kỳ này.
Tại Phòng trưng bày 2, “Địa điểm Triển lãm” đi sâu vào những không gian đa dạng nơi các nghệ sỹ châu Á trưng bày tác phẩm của mình tại Paris. Phần này chuyển hướng đến ý niệm về không gian triển lãm, và thiết kế cũng vì thế mà tham chiếu mạnh hơn đến những cách treo tranh kiểu salon thời xưa.
Phòng trưng bày 3 mang tính riêng tư và thân mật hơn vì đề cập đến đời sống xã hội và đời thường tại Paris của các nghệ sĩ di cư từ châu Á, trong phần “Xưởng và Phố”. Phần này tĩnh lặng và hướng nội hơn, giúp khách tham quan suy ngẫm về những trải nghiệm cá nhân của nghệ sỹ di cư. Tại đây, chúng tôi cũng xét đến những điểm kết thúc giai đoạn này – tác động của Đế nhị Thế chiến và các phong trào phi thực dân hoá sau đó đối với các nghệ sỹ – trong phần mang tên “Hệ quả”.
Triển lãm này không toàn diện, nhưng chúng tôi hy vọng quy hoạch này sẽ đem đến cho khách tham quan một góc nhìn phong phú và mới mẻ về những khía cạnh khác nhau trong trải nghiệm của các nghệ sỹ châu Á tại Paris.


“Đây là công trình lớn, trưng bày hơn 220 tác phẩm nghệ thuật gồm hội hoạ, điêu khắc, sơn mài, nghệ thuật trang trí, cộng thêm 200 bộ lưu trữ hoặc hình ảnh lưu trữ, được chia làm bảy phần, trải trong ba không gian triển lãm.”
Chủ đề “bản sắc thay đổi và chuyển hoá” xuyên suốt triển lãm không chỉ là vấn đề của riêng thập niên 1920–1940. Điều gì khiến chị chọn giai đoạn này làm khung giám tuyển, và làm thế nào để khiến chủ đề này phù hợp với khán giả ngày nay?
Thập niên 1920–1940 đánh dấu đỉnh cao mới trong làn sóng di cư đến Paris, nhờ vậy mà thành phố trở nên đa dạng hơn bao giờ hết. Đó đồng thời cũng là thời điểm trong lịch sử nghệ thuật Pháp hiện đại khi những khái niệm về “căn tính Pháp” so với “hương xa” hay “ngoại lai” nhận được nhiều sự quan tâm và tranh luận. Vì thế, đây là một thời điểm lịch sử đặc biệt thú vị để tập trung nghiên cứu, vì bối cảnh này đã tác động ít nhiều đến trải nghiệm và sự nghiệp của các nghệ sỹ châu Á. Họ phải điều hướng những kỳ vọng của công chúng mới tại Paris vốn đã có sẵn một số khái niệm nhất định về tác phẩm của nghệ sỹ châu Á, cùng lúc đó bản thân các nghệ sỹ cũng tạo ra lối đi riêng.
Ngày nay, chúng ta vẫn sống trong cùng một thế giới toàn cầu nơi vạn sự kết nối với nhau. Vì vậy, chúng tôi cũng tin rằng những trải nghiệm và chủ đề về bản sắc, sự gắn bó, trao đổi văn hoá, sức sáng tạo và khả năng hồi phục này sẽ gây được tiếng vang với khán giả đương đại.
“Vì vậy, chúng tôi cũng tin rằng những trải nghiệm và chủ đề về bản sắc, sự gắn bó, trao đổi văn hoá, sức sáng tạo và khả năng hồi phục này sẽ gây được tiếng vang với khán giả đương đại. “
Triển lãm quy tụ tác phẩm của nhiều nghệ sĩ đến từ khắp châu Á, với nhiều phong trào nghệ thuật Đông-Tây hội ngộ diễn ra cùng lúc. Đâu là một số điểm nổi bật chung của các phong trào này?
Một trong những điểm sáng của triển lãm này là sự góp mặt của nghệ sỹ đến từ nhiều nơi khác nhau ở châu Á, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, v.v. trong cùng một không gian triển lãm. Điều này giúp ta thực sự thấy được những trải nghiệm chung của họ, cũng như quỹ đạo phát triển đặc thù của từng nhóm. Một điểm chúng tôi thường xuyên nhận thấy chính là đối với các nghệ sỹ từ khắp châu Á, việc đến Paris không nhất thiết khiến cho tác phẩm của họ trông “Pháp” hơn, mà trên thực tế, đây lại chính là giai đoạn mà thẩm mỹ Á Đông trong tác phẩm của nhiều nghệ sỹ trở nên sâu sắc hơn, khi họ bắt đầu đánh giá lại di sản của mình qua góc nhìn mới ở nơi xa quê. Điều này xảy ra vì một số nguyên nhân gồm cả khao khát tạo ra một hình thức nghệ thuật hiện đại mới đặc trưng dựa trên gốc văn hoá của mỗi người, cũng như kỳ vọng của khán giả Paris về nghệ thuật châu Á. Một ví dụ điển hình chính là các nghệ sỹ Việt Nam như Lê Phổ, Mai Trung Thứ và Vũ Cao Đàm, sau khi di cư đến Paris trong thập niên 1930, họ tập trung nhiều hơn vào tranh lụa và sáng tác nên những hình ảnh rất lãng mạn và đậm nét lý tưởng hoá về Việt Nam.
Một điểm thú vị khác nảy sinh qua khuôn khổ so sánh này đó là các nghệ sỹ từ các vùng khác nhau ở châu Á lại thường chung địa điểm triển lãm. Một nơi các nghệ sỹ châu Á thường xuyên lui tới là “Salon Mùa Thu (Salon d’Automne)”, một trong số các triển lãm đại chúng thường niên có quy mô lớn tại Paris vào thời điểm này. Có lẽ họ thích nơi này vì triển lãm rộng cửa đón nhận mọi tác phẩm theo cả phong cách cổ điển lẫn hiện đại. Tại triển lãm lần này, chúng tôi đã tìm và trưng bày các tác phẩm của nghệ sỹ đến từ Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan tại “Salon Mùa Thu” năm 1931.


Là một tạp chí nghệ thuật Việt Nam, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến câu chuyện nghệ thuật Đông Dương. Tôi thích cách chị xoá mờ lằn ranh giữa mỹ thuật và mỹ nghệ để phản ánh tương quan giữa lý luận và thực tiễn của thời đại, mà trong đó phần nhiều lấy cảm hứng từ truyền thống Việt Nam. Đối với chủ đề này, chị có những quan sát chính gì?
Đây là một thời kỳ thú vị của nghệ thuật trang trí vì sự trỗi dậy của Art Deco, một phong cách hiện đại, phổ biến và được tối ưu hoá, có ảnh hưởng lớn đối với kiến trúc, thiết kế nội thất, thiết kế đồ hoạ cũng như nghệ thuật thị giác. Đáng chú ý hơn, Art Deco cũng được độc lạ hoá và cởi mở tiếp nhận các ảnh hưởng từ châu Á và châu Phi vốn thời thường thời ấy. Một phần ảnh hưởng đó nằm ở dạng thức vật liệu, chẳng hạn như sơn mài, một chất liệu đã trở nên cực kỳ thịnh hành trong thời kỳ Art Deco.
Càng suy nghĩ nhiều hơn về tính hiện đại trong nghệ thuật trang trí, ta càng có thể kết nối những gì diễn ra ở Paris với nghệ thuật hiện đại ở Hà Nội. Phong trào hội hoạ sơn mài hiện đại phát triển tại Trường Mỹ thuật Đông Dương trong thập niên 1930 và đầu thập niên 1940, và một số tác phẩm sơn mài Việt Nam đầu tiên tại Paris đã được trưng bày từ tận năm 1931. Mà ngay cả trước đó, rất nhiều nghệ nhân sơn mài Việt Nam đã đến làm việc tại Paris ngay sau Đệ nhất Thế chiến. Có lẽ nhờ trình độ chuyên môn của họ mà việc sản xuất sơn mài trang trí tại Paris mới có thể phát triển mạnh mẽ đến vậy trong giai đoạn này. Và những nghệ nhân này cũng di chuyển giữa Paris và Việt Nam. Qua đó ta có thể thấy rằng cả kỹ thuật và thẩm mỹ đều lưu thông giữa hai nơi, xoá nhoà ranh giới giữa mỹ thuật và nghệ thuật trang trí.
Bên cạnh những tên tuổi nổi tiếng như Lê Phổ, Mai Trung Thứ và Vũ Cao Đàm, thật mới mẻ khi thấy triển lãm còn có sự góp mặt của những nghệ sỹ ít được biết đến nhưng không kém phần quan trọng. Đâu là những cái tên chị yêu thích?
Cá nhân tôi, phần nghiên cứu triển lãm mà tôi thích nhất chính là tìm hiểu về các nghệ sỹ và nghệ nhân châu Á có liên hệ với xưởng vẽ của ông Jean Dunand, là một nhà sản xuất sơn mài gốc Thuỵ Sỹ hàng đầu tại Paris trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến. Jean Dunand vốn được nghệ sỹ người Nhật Seizo Sougawara dạy các kỹ thuật sơn mài hồi năm 1912, nhưng sản lượng sơn mài của ông tăng đột biến trong thập niên 1920. Tôi tin rằng đấy là nhờ vào sự gia tăng số lượng chuyên gia sơn mài người Việt Nam, rất nhiều người trong số đó đã bắt đầu hợp tác với ông từ hồi Đệ nhất Thế chiến. Thông qua nghiên cứu trong kho lưu trữ, tôi đã có thể trình bày trong triển lãm danh sách tên những thợ sơn mài người Việt làm việc tại xưởng Dunand năm 1930. Những người này vốn thường không được nêu tên cùng tác phẩm, nên việc có thể liệt kê tên họ trên tường của triển lãm là một khoảnh khắc vô cùng đặc biệt. Một số thợ sơn mài đến từ các làng sơn mài hoặc các vùng sản xuất sơn mài nổi tiếng tại Việt Nam. Một sự tình cờ không kém là Raden Mas Jodjana, vũ công người Java với các tác phẩm vũ đạo cũng trong triển lãm, ban đầu đến Paris cũng theo lời mời của Jean Dunand. Jodjana là một nhà thiết kế và nghệ sỹ tại xưởng Dunand, nhưng tiếc thay chúng tôi không tìm được vết tích tác phẩm của ông tại đây. Như vậy là sơn mài của Dunand có rất nhiều mối liên hệ thú vị với châu Á–Nhật Bản này, Việt Nam này, cả Java nữa! Tôi tin đây sẽ mở đường cho nhiều nghiên cứu hấp dẫn hơn trong lĩnh vực này.
Đội ngũ giám tuyển đã có nỗ lực đáng kinh ngạc khi tập hợp được một kho tác phẩm nghệ thuật từ nhiều tổ chức và bộ sưu tập tư nhân trên toàn thế giới. Công việc chuẩn bị triển lãm diễn ra như thế nào và phải đối mặt với những thách thức lớn gì về mặt hậu cần?
Triển lãm quy tụ các tác phẩm nghệ thuật từ Bộ sưu tập Quốc gia Singapore và các tác phẩm mượn từ hơn 50 tổ chức và bộ sưu tập tư nhân lớn từ Pháp, Nhật Bản, Hồng Kông, Hàn Quốc, Trung Quốc và nhiều nơi khác. Đây là một trong những nhóm cho mượn lớn nhất mà đội ngũ chúng tôi tại Phòng Trưng bày Quốc gia Singapore từng hợp tác. Chúng tôi vô cùng biết ơn tất cả các tổ chức và nhà sưu tập tư nhân đã tin tưởng giao phó cho chúng tôi những tác phẩm quan trọng này. Đối với khách tham quan, đây là cơ hội đặc biệt để có thể xem các tác phẩm của các nghệ sỹ châu Á đến từ nhiều nơi khác nhau trong cùng một triển lãm.
Việc điều phối các tác phẩm cho mượn từ hơn 50 nguồn khác nhau là một thách thức lớn về mặt hậu cần, và chúng tôi hy vọng công chúng đánh giá cao sự đa dạng và chất lượng các tác phẩm chúng tôi có thể giới thiệu. Một số kho lưu trữ công cộng và tư nhân cũng đã hỗ trợ chúng tôi rất nhiều và tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc nghiên cứu, nhờ vậy mà chúng tôi có thể trình chiếu các hình ảnh lịch sử và thậm chí là cảnh quay động. Đây là một đóng góp to lớn cho triển lãm.

Các nhóm khách châu Á khác nhau đón nhận triển lãm như thế nào?
Nhìn chung, tôi cũng nhận thấy khách tham quan rất dễ tiếp thu khuôn khổ so sánh của triển lãm và quan tâm đến việc các tác phẩm nghệ thuật từ đất nước họ cộng hưởng như thế nào với các tác phẩm từ các khu vực khác ở châu Á. Đây có thể là thời cơ dẫn đến những khám phá mới! Cá nhân tôi rất háo hức khi xem các tác phẩm của nghệ sỹ hiện đại người Hàn Quốc Pai Un-soung đặt chung với Lê Phổ và Mai Trung Thứ. Thẩm mỹ của họ có nhiều điểm tương đồng.
Các nhóm khách châu Á khác nhau cũng có những phản ứng rất tự nhiên với các tác phẩm của nghệ sỹ đến từ đất nước mình. Nhiều khách người Singapore dễ bị thu hút bởi bộ tác phẩm của nghệ sỹ Georgette Chen, người đã dành phần lớn cuộc đời sau này ở Singapore. Chúng tôi đang trưng bày một nhóm các tác phẩm từ thời kỳ Paris của bà, đây là những tác phẩm chưa bao giờ được trưng bày lại kể từ thập niên 1930!
Còn khán giả Việt Nam lại đặc biệt thích thú với chất lượng xuất sắc của các tác phẩm trưng bày, và trên thực tế, đây cũng là cơ hội hiếm có để chiêm ngưỡng các tác phẩm này. Một số tác phẩm đến từ các bộ sưu tập cá nhân, một số khác lại được lưu giữ trong các bảo tàng Pháp, vì vậy, người Việt Nam nói chung không phải lúc nào cũng xem được dễ dàng! Tôi hy vọng nhiều khách tham quan từ Việt Nam sẽ tận dụng thật tốt cơ hội này.


Xin cảm ơn chị, và một lần nữa chúc mừng đội ngũ dự án!
Translation: Ally Le


