Từ 1993 đến 2024, các phương pháp giám tuyển nghệ thuật đạt được những bước tiến vượt bậc, và chính ba kỳ triển lãm tam niên đầu tiên (APT1, APT2, APT3) được xem là giai đoạn kiến tạo nên những mối liên kết bền chặt và sâu đậm nhất giữa hai nước. Đáng chú ý, các kỳ APT này đặc biệt nhấn mạnh sức ảnh hưởng của các giá trị truyền thống từ đời sống dân gian, nông thôn, văn hóa đường phố, cùng những hình thức nghệ thuật mang tính bản địa đối với nền nghệ thuật đương đại của Việt Nam. Dù APT không bị chi phối bởi một chủ đề tổng thể nào trong việc lựa chọn tác phẩm, người ta vẫn có thể cảm nhận được những nối kết này trong sáng tạo của nhóm năm nghệ sỹ đến từ Việt Nam và từ cộng đồng người Việt ở hải ngoại tham gia APT11, bao gồm Lê Thúy, Bùi Công Khánh, Lê Giang, Trương Công Tùng và Mai Nguyễn-Long. Trong các sáng tác của họ, những khám phá tinh tế giữa truyền thống và cách tân, giữa hồi ức và chất liệu, giữa tính liên tục và sự trở về, hiện lên rõ ràng, lần theo những dòng phả hệ đan dệt giữa lịch sử cá nhân và lịch sử văn hóa.

Những chuyến điền dã và nghiên cứu giám tuyển trực tiếp chính là mạch sống của APT; việc tuyển chọn nghệ sỹ được thực hiện từ rất sớm, mở đường cho những sáng tạo mới nảy nở và việc mượn tác phẩm được thuận lợi. Tháng 11 năm 2022, hành trình nghiên cứu của tôi cho APT11 đã dừng chân tại Việt Nam, đưa tôi đến thăm xưởng vẽ của Trương Công Tùng ở một góc ngoại ô TP.HCM. Ở Tùng, kỹ thuật sơn mài được thụ huấn bài bản, kết hợp cùng đam mê khoa học, những suy tư về sinh thái và vũ trụ quan, tạo nên một hợp thể độc đáo, nơi tự nhiên và văn hóa giao duyên. Con đường nghệ thuật của anh mang những ảnh hưởng từ tháng ngày thơ ấu ở Đắk Lắk và mối giao cảm bền chặt với người Jrai bản địa tại Tây Nguyên, một cộng đồng mà đức tin và phong tục đã bén rễ sâu vào mảnh đất quê hương. Bằng nhiều phương tiện biểu đạt, từ sắp đặt, âm thanh đến những vật thể tìm thấy, Trương Công Tùng phản ánh, theo cách diễn đạt của chính anh, “những biến chuyển văn hóa và địa chính trị của quá trình hiện đại hóa, được thể hiện qua sự đổi thay của hệ sinh thái, của những niềm tin hay huyền thoại gắn với một miền đất.”
Tác phẩm sắp đặt biệt vị“Khu vườn lạc hướng” (2024) của Trương Công Tùng, sáng tác dành cho APT11, gồm một vườn bầu – loài cây này không chỉ là một trong những nông sản có lịch sử canh tác lâu đời nhất Đông Nam Á, mà còn gắn liền với truyền thống làm vật chứa nước hay phần thân của các nhạc cụ. Phía trên vườn là những khối cầu sơn mài treo lơ lửng, tái hiện những hình ảnh từ các kho lưu trữ tư liệu về những vùng đất đã phải hứng chịu tác động của thiên tai và thảm họa nhân sinh, từ những trận cháy rừng thiêu rụi đến những vết thương chiến tranh. Đối diện với những luống cây là một dãy các khung giá bằng gỗ – từng là nơi trú ngụ của những lứa tằm – nay được khảm những viên đá từ mọi nẻo đường Việt Nam, nằm trong sắp đặt tựa hồ một tấm bản đồ thiên thể.
Năm 2024, Tùng cùng với Tú, em trai và cũng là trợ lý của anh, có mặt tại Brisbane để trực tiếp thi công tác phẩm. Họ cùng nhau đặt những trái bầu sơn mài lên nền cát mịn, kết nối chúng bằng một mạng lưới ống nhựa chằng chịt những huyết mạch, dẫn vào một hồ chứa nước đen thẳm màu mực. Mỗi trái bầu lại chứa đựng những chất liệu riêng: nghệ tươi với hương nồng và thanh sắc rực rỡ; những hạt đậu xanh nhỏ nhắn cựa mình nảy mầm; gạo trắng dùng chổi lớn vun vén lại; đậu đỏ đằm mình tạo sức nặng; và dung dịch rửa chén thêm vào những khối bọt xốp phập phồng chuyển động. Các cảm biến chuyển động sẽ kích hoạt các loa, phát ra tiếng rì rầm của côn trùng như ong, ve sầu và một số loài khác, qua đó thêm một tầng thanh âm vào cảnh quan đa giác quan mà sắp đặt mang lại.



Trong quan niệm của Trương Công Tùng, sáng tạo là một tiến trình tuần hoàn và có tính tương hỗ, trong đó các yếu tố như thời gian, nhiệt độ, bào mòn tự nhiên và rung cảm tâm linh giữ vai trò ngang nhau. Mỗi một thành tố trong “Khu vườn lạc hướng” đều ngụ ý một cuộc hóa thân, phác họa một thể hữu cơ mà từng mảnh ghép chỉ trở nên có ý nghĩa, chỉ thực sự sống dậy thông qua tương tác và hiện diện của người thưởng lãm. Bằng những phép đối sánh giàu chất thơ, tác phẩm không né tránh mà trực diện đối mặt với những ảnh hưởng sâu rộng của quá trình hiện đại hóa và công nghiệp hóa tại Việt Nam, những di chứng nhức nhối từ chiến tranh hóa học và những thảm họa sinh thái, cùng nỗi đau của những phận người ly hương, phải rời bỏ chốn thờ tự. Dẫu vậy, “Khu vườn lạc hướng” không hề tỏ bày như một đài tưởng niệm quá khứ. Trái lại, tác phẩm gợi mở ý niệm về lai tạo và sinh trưởng – một tồn tại cộng sinh, nơi vạn vật khoác lên tầng nghĩa mới khi được đặt trong những biến chuyển vi tế của đất trời và dòng chảy văn hóa.
Giữa lòng Hà Nội, tôi tìm đến không gian sáng tạo của Lê Giang, nơi cô chia sẻ về những tác phẩm đã thành hình. Xuyên suốt quá trình thực hành của mình, Lê Giang ghi lại kiến trúc của những ngôi đình làng, đồng thời chất vấn lịch sử thời kỳ thuộc địa của chúng, và cũng như Trương Công Tùng, cô khám phá những tầng nhận thức văn hóa không ngừng biến thiên về giới tự nhiên. Mang trong mình một mối quan tâm sâu sắc đối với truyền thống thủ công mỹ nghệ và nếp tín ngưỡng dân gian của dân tộc, Lê Giang phiêu lưu qua nhiều phương tiện biểu đạt, từ những kỹ thuật bản xứ như đổ thạch cao, khảm trai, dập nổi trên giấy, và mới đây nhất là kỹ thuật “vẽ tranh” bằng đá quý.
Chuyến điền dã năm 2020 đã đưa Lê Giang đến với Yên Bái và Nghệ An, hai tỉnh phía Bắc Việt Nam được mệnh danh là những đầu mối giao thương đá quý sầm uất. Cô dành thời gian tìm hiểu cách các nghệ nhân địa phương tạo ra những bức tranh đá tinh xảo từ chính những mảnh vụn “phế phẩm”, những phần đá tạp chất. Những mảnh đá này, sau khi được phân loại theo kích cỡ, màu sắc và nghiền thành bột mịn, sẽ được các nghệ nhân khéo léo rắc lên một tấm nhựa mica trong suốt theo khuôn hình có sẵn bên dưới. Một lớp keo đặc thù sẽ cố định lớp bột đá, và cuối cùng, bề mặt tranh được mài giũa công phu cho đến khi đạt độ bóng sáng lấp lánh. Lê Giang đặc biệt ấn tượng trước sức hút của dòng tranh “Sơn thủy hữu tình”. Dù chúng thường bị coi là “sến”, những họa đồ này lại được ưa chuộng rộng rãi, bởi người ta tin rằng chúng là biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên thuần khiết, mang lại tài lộc, trường thọ, cùng nhiều phúc lành khác cho gia chủ.


Loạt tranh đá quý của Lê Giang, lấy cảm hứng tên gọi từ chính dòng tranh ”Sơn thủy hữu tình”, thẳng thắn chỉ ra những trớ trêu trong nhận thức văn hóa về giới tự nhiên. Khai thác đá quý kéo theo bao hệ lụy, xói mòn đất đai, ô nhiễm nguồn nước, phá hủy những khu rừng vốn được coi là linh thiêng trong đời sống tâm linh bản xứ. Một số họa đồ đá quý của cô mang vẻ trừu tượng, mô phỏng bề mặt của những viên đá qua chế tác, ám chỉ quá trình khai thác chúng từ lòng đất mẹ. Từ bỏ cái nhìn vọng cảnh, đầy ngưỡng mộ tòa thiên nhiên cao cả, những tác phẩm này soi chiếu qua lăng kính cận cảnh để phơi bày những khiếm khuyết và rạn vỡ. Và rồi, như một đối âm sắc lạnh, là loạt tranh phong cảnh hiện thực đặc tả những vùng đất hoang tàn dưới vấn nạn khai thác mỏ lộ thiên và ô nhiễm. Thoạt nhìn, chúng bắt mắt với bề mặt lấp lánh và sắc độ hấp dẫn; khi quan sát kỹ hơn, người xem nhận ra những thân cành khẳng khiu trụi lá, cỏ dại tràn lan, đất đai xói lở. Cảnh vật đang oằn mình chịu đựng. Qua độ căng đầy kịch tính này, Lê Giang lột tả sự vênh lệch giữa những bức tranh sơn thủy hữu tình với núi non cao vời, sông dài thơ mộng, và thực tế khắc nghiệt hơn về môi trường, xã hội và kinh tế mà chúng đang khỏa lấp.

Vào năm 2020, Lê Thúy cùng gia đình rời xa cuộc sống bận rộn tại TP.HCM để định cư ở Hội An. Chính từ bước ngoặt này, tác phẩm sắp đặt mang nhiều hoài bão của cô, “Tiếng vọng” (2023), được thành toàn. Sắp đặt mang dáng dấp một phế tích, phác họa từ dòng chảy lịch sử kiến trúc và văn hóa của vùng đất thương cảng xưa, nơi giao thoa những dấu ấn của nền văn hóa Việt, Hoa, Nhật, Pháp qua hàng thế kỷ. Với ý thức trước những mối nguy mà di sản Hội An đang phải đối mặt từ cơn lốc đô thị hóa, Lê Thúy đã kịp thời giải cứu chín bộ cánh cửa từ một ngôi nhà cổ vừa bị phá dỡ. Ròng rã một năm trời trong xưởng họa, cô dày công biến đổi chúng, phủ lên những lớp sơn mài và thếp vàng để từ đó tạo nên những tác phẩm chồng lớp, ẩn hiện dáng hình cỏ cây, hồi ức lịch sử, lời nhắc nhở về cái chết (memento mori), và những biểu tượng tôn giáo xuyên Á Đông. Một bộ khung nhà, với mái ngói và những cột chống, được tái hiện tại không gian của QAGOMA theo đúng thông số kỹ thuật từ nữ nghệ sỹ, tạo ra một khung cấu trúc cho những thành tố đa dạng của “Tiếng vọng”.
Lê Thuý, “Tiếng vọng” (2023), mực, thư pháp, sơn polyme tổng hợp và thêu trên lụa, 220 x 112 cm. Mua năm 2024 bằng quỹ tài trợ Tim Fairfax AC thông qua Quỹ QAGOMA. Bộ sưu tập: Quỹ QAGOMA.

Tạo thành vách tường đơn của ngôi nhà, mỗi mặt của những cánh cửa lại kể một câu chuyện đối lập, một điểm nhìn tương phản. Một bên mang nặng những ám ảnh về chiến trận, về sự tàn lụi, về tai ương nghiệt ngã. Bên kia bày ra khung cảnh của mộng ảo, của cảnh sắc yên bình, của hy vọng le lói. Cả hai cùng giằng xé không ngừng giữa hủy diệt và hồi sinh, giữa mở ra và khép lại. Mỗi nhành cây, đóa hoa, con thú được khắc họa đều mang một sức nặng biểu tượng: có loài cây là vị thuốc cứu người, gắn liền với quá trình lành lại; cũng có loài mang độc tố, là mối đe dọa cho sự sống. Và rồi, chính giữa chín bản lề ráp lại, Lê Thúy họa một hình bóng nữ nhân mờ ảo với muôn vàn cánh tay, như hiện thân cho sự chở che, bao bọc của Đạo Mẫu – một đức tin tiếp biến với tục thờ Quan Âm Bồ Tát trong Phật giáo tự bao đời.
Ở phía đối diện là bức vách từ chuỗi tranh vẽ mực trên lụa. Những nét vẽ khi phóng khoáng, khi tỉ mỉ, những áng thơ và đường chỉ thêu tay cùng tái hiện hình bóng những khám thờ gia tộc, những hoa văn kiến trúc xưa, những kỷ vật đầy trân quý. Đây là những vật thể gợi bóng dáng cố nhân, hé mở những hình dung về giá trị sống, đức tin và ước vọng thầm kín của họ. Kề bên, cụm gạch vỡ phủ sơn mài và thếp vàng trở thành điểm tựa cho toàn bộ sắp đặt. Những tàn tích hữu hình ấy đối hưởng với bức tường gạch hiện lên trong tranh, hình thành một đối trọng về chất liệu với vẻ thanh tao của lụa. Tính phù du của ký ức và mong manh của di sản là tâm điểm “Tiếng vọng”. Như chính lời nghệ sỹ chiêm nghiệm, “Tôi hy vọng rằng, qua khám phá này, chúng ta có thể phát hiện vẻ đẹp trong những điều khuất lấp và ý nghĩa nơi những gì đã phai mờ.”
Cũng như Lê Thúy, Bùi Công Khánh chọn Hội An làm nơi an cư, dẫu cho mỗi năm, anh vẫn dành ra vài tháng làm việc tại Bát Tràng – nơi tôi có dịp gặp gỡ anh. Lần đầu tiên Khánh bén duyên với làng gốm cổ này là khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Để rồi sau này, khi đã là một nghệ sỹ có tên tuổi, anh vẫn quay về làm việc trong một xưởng sản xuất, kề vai sát cánh cùng những gia đình thợ gốm nối nghiệp cha ông. Những sáng tạo gốm sứ mang dấu ấn cá nhân của Bùi Công Khánh ra đời vào những năm đầu thập niên 2000. Vẫn với dáng dấp của dòng gốm men lam truyền đời, anh thay thế những họa tiết cỏ cây, hoa lá đặc trưng bằng những hình vẽ phản ảnh đời sống Hà Nội đương thời, giai đoạn mà ảnh hưởng của toàn cầu hóa đang ngày một rõ nét. Những chiếc bình gốm đầu tay của anh được trưng bày tại APT 6 (2009–10), trong khuôn khổ Dự án Mê Kông do anh và Richard Streitmatter-Tran đồng giám tuyển.
Kể từ đó, nghệ sỹ liên tục hoàn thiện các kỹ thuật của mình, cho ra đời những loạt tác phẩm đáng chú ý, phong phú về tầm vóc, ý tưởng và phương thức biểu đạt. Đến với APT11 lần này, anh trưng bày một bộ sưu tập bình gốm được chế tác trong khoảng 2022–2023, cùng với một tác phẩm video mới thực hiện tại Bát Tràng. Với chiều cao khoảng 1,5 mét, mỗi chiếc trong bộ năm đều có đường cong khác biệt và phần chóp bo tròn, chủ ý liên tưởng tới trái bom. Một số bình mang lớp men rạn trắng ngà – vẻ đẹp chỉ thấy ở gốm Bát Tràng – trong khi số khác lại có bề mặt phủ men bóng. Trên thân bình, các họa tiết vẽ tay hiện ra: dáng rồng uốn lượn, phố thị hối hả, cuộn khói, áng mây, dáng người đa sắc, hướng dương xanh cô-ban khẽ rủ và những hình hài tựa kén.


Lần đầu chạm ngõ điện ảnh, Bùi Công Khánh ra mắt “Tư liệu Bát Tràng – bản dựng 2” (2024) – một tác phẩm khơi nguồn từ câu chuyện về hành trình du nhập chữ Latinh vào Việt Nam thông qua những nhà truyền giáo Dòng Tên. Với Khánh, câu chuyện này hàm chứa bề dày di sản văn hóa của dân tộc, về cách đất nước mình dung nạp những ảnh hưởng ngoại lai qua hàng thế kỷ giao thương mà vẫn giữ vững cốt cách, bản sắc riêng. Bộ phim trình chiếu tại APT11 là tâm thư gửi tới Bát Tràng và cũng là lời ngợi ca vẻ đẹp âm sắc của tiếng Việt. Bằng cách đan cài những lời kể riêng tư với ngôn ngữ ẩn dụ và tham chiếu di sản văn hóa, các tác phẩm của anh phản ảnh những di chứng từ quá trình thuộc địa hóa, chiến chinh, cả những biến chuyển kinh tế mạnh mẽ vẫn đang tiếp tục định hình đời sống cá nhân và đời sống tập thể tại Việt Nam.
Chào đời trên đất Úc, tuổi thơ của Mai Nguyễn-Long lại là những chuỗi ngày lớn lên qua nhiều xứ sở, từ Papua New Guinea đến Philippines, để rồi nhen nhóm trong cô khao khát tìm hiểu về Việt Nam – quê hương người cha. Đầu thập niên 90 khi Việt Nam mở cửa trở lại với thế giới, cô đã không ngần ngại tìm về Hà Nội để sinh sống và học tập; nhưng đến khi quay lại Úc, cô gặp nhiều khó khăn trong việc kết nối với cộng đồng người Việt xa xứ tại đây. Ngay sau đó, một triển lãm các tác phẩm của cô tại Trung tâm Nghệ thuật Casula Powerhouse ở Sydney đã dẫn tới các cuộc biểu tình và kiểm duyệt. Đây là trải nghiệm vô cùng đau buồn đối với nữ nghệ sỹ, khiến cô xa rời cội nguồn Việt suốt nhiều năm ròng. Trớ trêu thay, dẫu cho cô từng tham gia tuyển chọn nghệ sỹ cho kỳ APT2, phải đến khi giám tuyển Đỗ Tường Linh từ Hà Nội giới thiệu tác phẩm gốm của Mai tại Berlin Biennale lần thứ 12, tôi mới lần đầu biết đến chúng.
Đầu tiên, hình tượng “Cô gái buồn nôn” xuất hiện trong tranh vẽ của Mai Nguyễn-Long như một phản ứng bản năng trước trải nghiệm bị khước từ. Không chỉ là hiện thân của sự nín lặng, của tiếng nói bị tước đoạt, mà còn là một hình thức phản kháng, một liệu pháp hàn gắn và tái kết nối qua lăng kính hóm hỉnh, qua cuộc chơi ngôn từ và qua cả những pha dịch lệch tạo sáng. Để phát triển loạt tác phẩm này, Mai quay lại Việt Nam vào năm 2014 sau hơn một thập kỷ xa cách, và một năm sau đó, cô bắt đầu làm việc với đất sét tại Bát Tràng. Cô mô tả gu thẩm mỹ chân quê, chất làng của mình là “mộc mạc” – đón nhận hồn hậu những gì không hoàn hảo, trong mọi hình thái của chúng. Như một phương cách vãn hồi di sản văn hóa từng cách trở, Mai say mê kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam và những mảng chạm khắc gỗ trên các đình làng mà cô bắt gặp lần đầu từ thập niên 90.
Mai cho rằng những điêu khắc gốm “Cô gái buồn nôn” là những “hình thái văn hóa dân gian mang hơi thở đương đại”. Cô đề xuất “nghệ thuật đương đại hoàn toàn có thể mượn lối kể của dân gian để mở ra khoảng không cho những tự sự bị dồn nén, những câu chuyện khuất lấp và cả những tự sự tân kỳ được cất tiếng, vượt thoát khỏi những tổn thương của phận người xa xứ”. Mỗi “Cô gái buồn nôn” đều được tạo hình dựa trên “Doba” (trục chuông vỏ bom đình làng) – gợi nhắc đến câu chuyện có thật về vỏ bom được tái chế thành chiếc chuông làng, một biểu tượng của hy vọng và kiên gan. Từ đó, hình tượng những tiên voi, những chú cóc, những mèo chiến binh, những vũ điệu của chim, những người cưỡi trâu, những con cá thòi lòi và cả những chú gà gào thét, v.v. trong vô vàn hình hài kỳ thú hiện lên, tạo ra ngôn ngữ thị giác vừa tinh tế, vừa hệ thống, lại vô cùng lôi cuốn. “Dự án Cô gái buồn nôn 2024” góp mặt tại APT11 lần này mang đến nhiều sáng tạo mới – từ những vật thể nhỏ bé nằm gọn trong lòng bàn tay đến những cụm tượng gồm nhiều phần cao hơn một mét – được sáng tác dành riêng cho kỳ triển lãm tam niên. Qua chất liệu đất sét, Mai kiến tạo những mối liên kết, những tầng liên tưởng mới, như một hình thức phi thực dân hóa và một cuộc kháng cự bằng sáng tạo.



Dẫu rằng những tên tuổi này chỉ hé mở một cái nhìn thoáng qua về độ phong phú của hoạt động sản xuất nghệ thuật tại Việt Nam, nhưng từ những tác phẩm họ mang đến APT11, ta vẫn có thể nhận ra những mạch ngầm chủ đề xuyên suốt. Có thể kể đến việc dùng chất liệu địa phương; những liên hệ tới các tín ngưỡng bản xứ và loại hình nghệ thuật dân gian; những phản hồi trước chấn thương của ly tán; sự thiếu vắng tiếng nói của các nhóm thiểu số; và những suy tư về cái giá con người phải trả trong quá trình toàn cầu hóa. Đóng góp của Bùi Công Khánh và Mai Nguyễn-Long như một mối dây xuyên suốt, nối liền quá khứ với hiện tại. Hiện diện của họ tại triển lãm lần này không chỉ minh chứng cho những mối duyên bền bỉ được vun đắp qua các kỳ triển lãm tam niên, mà còn hứa hẹn những đối thoại không ngừng tiến triển và mở ra những chương hồi mới.%
Translation: Hương Trà




