Khuôn mặt hãi hùng gọi tên một vì sao

Nghệ sỹ thị giác, TS Trần Hậu Yên Thế chia sẻ về hổ phù, họa tiết thiết kế gắn liền với một cảm xúc cơ bản của con người nói chung và trong văn hóa tâm linh của người Việt nói riêng – nỗi sợ.

Nỗi sợ hãi không chỉ là một cảm xúc đơn thuần mà còn là một ngôn ngữ thầm lặng của tâm hồn. Lắng nghe và thấu hiểu những nỗi sợ hãi của bản thân và của dân tộc mình có thể mang lại những hiểu biết sâu sắc về con người, về những điều quan trọng trong cuộc sống và về hành trình phát triển bản thân. Nó giống như việc nhìn vào một tấm gương, đôi khi méo mó, nhưng luôn phản ánh một phần chân thật của chúng ta. Nỗi sợ hãi không chỉ là một phản ứng sinh học hay cảm xúc nhất thời, mà như chiếc chìa khóa bí mật, có khả năng mở ra những cánh cửa ẩn sâu trong tâm hồn và tiết lộ những khía cạnh quan trọng về con người. Sự thiếu vắng hình ảnh những con sư tử hung hãn, ghê gớm trong mỹ thuật Việt Nam hiện đại không có nghĩa là không có những hình tượng gớm ghiếc, dữ dội trong mỹ thuật cổ truyền. Sư tử, hổ, báo quả là đáng sợ, nhưng đó là cái sợ mang tính sinh học. Người Việt có một nỗi sợ hãi tâm linh, mà trong thế giới tâm linh thì đó phải là ma quỷ. Trong bài viết này, chúng tôi xin được trao đổi về đồ án mang tên hổ phù, dù chỉ có chút liên quan tới hổ báo nhưng đó là đồ án vừa khủng khiếp vừa đáng yêu nhất trong mỹ thuật của người Việt.

“[Hổ phù] là đồ án vừa khủng khiếp vừa đáng yêu nhất trong mỹ thuật của người Việt.”

Nỗi sợ hãi trước sức mạnh và sự nguy hiểm của các loài mãnh thú trong tự nhiên có thể dần phát triển thành sự sùng kính. Con người cổ đại cảm nhận rõ ràng sự yếu thế của mình trước những loài vật có sức mạnh vượt trội, tốc độ đáng kinh ngạc, hoặc vũ khí tự nhiên sắc bén. Trong nhiều nền văn hóa cổ đại trên khắp thế giới, nơi các loài vật như hổ, sư tử, báo, gấu, rắn, chim ưng, v.v. đều có vị trí đặc biệt trong tín ngưỡng và thần thoại. 

Sự bất lực này có thể dẫn đến sự kính phục, coi chúng như những hiện thân của sức mạnh tự nhiên không thể kiểm soát. Một số loài mãnh thú có thể liên quan đến nguồn thức ăn hoặc các yếu tố quan trọng cho sự sống của cộng đồng. Việc tôn thờ chúng có thể

là một cách để cầu mong sự ban phước, tránh gây ra sự giận dữ, hoặc đảm bảo sự ổn định của nguồn tài nguyên. Các loài mãnh thú thường mang những đặc điểm nổi bật, trở thành biểu tượng cho những phẩm chất mà con người ngưỡng mộ như sức mạnh, lòng dũng cảm, sự nhanh nhẹn, hoặc khả năng săn mồi. Việc sùng kính chúng có thể là một cách để kết nối với những sức mạnh tinh thần này. Qua thời gian, những câu chuyện và truyền thuyết về các loài mãnh thú có thể được thêu dệt, chúng tạo nên những phẩm chất siêu nhiên hoặc vai trò quan trọng trong vũ trụ quan của một cộng đồng. Sự sùng kính thường được thể hiện qua các nghi lễ, hình vẽ, tượng thờ, hoặc tục lệ kiêng kỵ liên quan đến các loài vật này. Những hành động này củng cố thêm mối liên hệ tâm linh giữa con người và loài vật. Ở Việt Nam, hổ là động vật bản địa, một loài vật hung dữ bậc nhất trong thế giới động vật. Danh hiệu chúa sơn lâm được người Việt dành cho loài vật này. 

Trong công trình khảo cứu công phu về văn minh vật chất người Việt, học giả Pháp Henri Oger đã chép lại hình một cái cổng và trên đó có chữ “hổ phù” (虎符). Cách gọi xuất phát từ dân gian đã lần đầu tiên đi vào thế giới học thuật hàn lâm và hơn 100 năm qua, cách gọi này đã tạo nên những nhầm lẫn đáng tiếc. Vì cách định danh này nên hầu hết các công trình nghiên cứu mỹ thuật, tôn giáo, và biểu tượng học ở Việt Nam lâu nay thường gọi chung những đồ án Kala, Rahu (vốn có nguồn gốc Ấn Độ) là hổ phù, hay La Hầu (theo phiên âm Hán-Việt). Cách gọi này có căn nguyên sâu xa từ hình ảnh đầu hổ, báo trên giáp phục Trung Hoa. Một lý do nữa là trong kiến trúc Trung Hoa có dạng đồ án “bệ ngạn” (狴犴) thường được trang trí ở chốn lao tù, đặc biệt nơi giam cầm các tội phạm đặc biệt nguy hiểm. Bệ ngạn đầu rồng thân hổ là một trong chín con của rồng nhưng có mẹ là bạch hổ. Trong lịch sử quân sự phong kiến Trung Hoa, có loại tín phù hình hổ, được gọi là hổ phù. Hổ phù là dạng quân phù do hoàng đế Trung Hoa cấp cho các tướng lĩnh dùng để điều binh. Hình dạng hình hổ (toàn thân), chia làm hai mảnh thường là bằng thanh đồng và vàng. Chỉ khi hai mảnh giáp lại đúng hình một con hổ thì quân lệnh mới có hiệu lực. Ý nghĩa của từ “phù hợp” (符合) có căn nguyên này. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhắc đến việc vào tháng 11 năm Đinh Mùi 1427, Lê Lợi đã trả lại hổ phù của An Viễn hầu Liễu Thăng cho nhà Minh.


Bản vẽ chi tiết trang trí kiến trúc được chú thích Hổ phù. Nguồn: Henri Oger.
La Hầu trang trí trên đầu hồi ở đền Vua Lê, Hoa Lư. Nguồn: Trần Hậu Yên Thế, “Đi tìm khuôn mặt La Hầu”, NXB Mỹ thuật, 2024.
La Hầu hóa cúc trang trí trên đầu hồi chùa Hưng Ký, Hà Nội. Nguồn: Trần Hậu Yên Thế, “Đi tìm khuôn mặt La Hầu”, NXB Mỹ thuật, 2024.

Đồ án được gọi là hổ phù trong nghệ thuật thị giác người Việt thường có những đặc điểm không phải là hổ. Có thể liệt kê, đầu rồng, miệng ngậm chữ “thọ” (寿), thân không vằn vện, chân thường nắm mây, và cũng không bao giờ thấy đuôi và chân sau. Khi đối chiếu với nghệ thuật Đông Nam Á (Campuchia, Thái Lan, v.v.) chúng tôi đưa ra giả thuyết đó là đồ án Rahu. Những ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ tới Việt Nam chủ yếu là con đường từ Nam ra Bắc. Những ảnh hưởng của các quốc gia Ấn Độ hóa như Óc Eo, Chăm Pa tới Đại Việt đã được khẳng định trong những hiện vật khảo cổ và những di vật hiện tồn đã tạo nên một phần diện mạo quan trọng của mỹ thuật Lý, Trần.  

Trong những bản kinh tối cổ Puranas đã mô tả khá kỹ Rahu và Ketu. Khi các chư thần đang khuấy sữa trường sinh, con quỷ Rahu trà trộn vào thế giới thần linh để uống trộm thứ nước thần này. Mặt trời và mặt trăng nhìn thấy liền báo với thần Vishnu. Thần Vishnu nổi giận. Ông ngay lập tức cắt đầu của Rahu với sự trợ giúp của vũ khí Sudershan Chakra. Nhưng vì Rahu đã kịp nuốt sữa trường sinh vào trong miệng nên nó thoát chết, mặc dù đã mất một phần cơ thể. Kể từ đó, nó không bao giờ tha thứ cho mặt trời và mặt trăng, nên thỉnh thoảng lại nuốt chửng chúng, tạo nên nhật thực và nguyệt thực. Nhưng vì đã bị chặt mất nửa thân nên Rahu không thể giữ được mặt trời và mặt trăng trong người mình. Cho nên không bao lâu sau, chúng lại thoát ra được. 

John Dowson (1870) nhắc cho chúng ta biết hình dạng quái vật đầu rồng, có bốn tay và kết thúc bằng một cái đuôi của Rahu. Sau khi bị cắt đứt thân thể, hình ảnh tiêu biểu của nó là một cái đầu rồng với hai tay, phần còn lại sau cơn thịnh nộ của Vishnu. Huỳnh Thị Được có miêu tả đầu rồng của quỷ Rahu: Rahu-thần nhật thực và nguyệt thực. Rahu là một điểm nổi bật trong chiêm tinh học, dần dần được nhân hóa thành một vị thần, là nguyên nhân của hiện tượng nhật thực và nguyệt thực và là người điều khiển hiện tượng sao băng. Thần được khắc họa như một con quái vật thỉnh thoảng nuốt mặt trời và mặt trăng, gây nên hiện tượng nhật thực và nguyệt thực. Rahu có chiếc đầu rồng và chiếc đuôi giống như sao chổi

Đó là những điều giải thích thân thể chỉ còn đầu và hai chi trước của Rahu hay Rìa hu theo cách gọi ở Sóc Trăng (Việt Nam). Rahu là một biểu tượng kép, trước hết nó liên quan đến sự lừa dối, tham lam, giận dữ. Nhưng vì uống trộm thuốc trường sinh bất tử nên Rahu cũng được coi là thần của may mắn, tiếng tăm, uy tín và quyền lực, sự thịnh vượng và tri thức tối thượng. Trong quan niệm của Phật giáo ở Thái Lan, Phra Rahu được thờ phụng như một sức mạnh siêu nhiên tiêu trừ ác độ, bảo vệ Phật pháp. Tín ngưỡng này liên quan đến một nội dung kinh Phật trong tiếng Pali, khi Rahu tấn công Chandra – thần Mặt trăng, và Suriya – thần Mặt trời, đức Phật xuất hiện buộc Rahu phải nhả họ ra.

Hình ảnh Rahu ở Việt Nam với hình ảnh “long hàm thọ” là một sáng tạo riêng của người Việt. Trước hết, phải khẳng định ngay rằng, trong mỹ thuật Trung Hoa hay Nhật Bản, Triều Tiên không có kiểu thức rồng bán thân ngậm chữ “thọ” mà chỉ có kiểu rồng toàn thân vờn chữ “thọ”. Và ngay cả trong mỹ thuật Đại Việt, từ Lê Sơ trở về trước cũng không có dạng đồ án này. Trong nghệ thuật Chăm Pa, quỷ Rahu không phải là hình ảnh phổ biến và cũng không có dạng thức này. Với ý nghĩa uống được thuốc trường sinh bất tử nên Rahu trong nghệ thuật Việt đã thêm chữ “thọ” đang bị nuốt nửa chửng.


Hổ phù thời Nam Việt, trong mộ Triệu Muội, Quảng Châu, Quảng Đông, Trung Quốc.
“Hình ảnh Rahu ở Việt Nam với hình ảnh “long hàm thọ” là một sáng tạo riêng của người Việt.”

“Hình ảnh Rahu ở Việt Nam với hình ảnh “long hàm thọ” là một sáng tạo riêng của người Việt.”

Đồ án Rahu với tên gọi “long hàm thọ” đã được chính thức cung đình hóa, sử dụng phổ biến trên trán bia, trên đầu hồi điện Thái Hòa, điện Ngưng Hy. Có một nghịch lý là đồ án Rahu được sử dụng phổ biến, rộng khắp từ Nam ra Bắc nhưng vấn đề danh xưng, nguồn gốc và ý nghĩa biểu tượng của nó ít được bàn luận thấu đáo. Linh mục L. Cadière (1869–1955) có lẽ là người đầu tiên lý giải đồ án này, tuy thấy nó không liên quan gì tới biểu tượng hổ, nhưng ông cũng chưa tìm thấy mối liên hệ với văn hóa Ấn Độ. Một trong những dạng thức độc đáo của đồ án quỷ Rahu thời Nguyễn là con quỷ này hóa thành một bông sen, thậm chí trở thành một cụm sen nhiều bông. Một đồ án hung hiểm bậc nhất trong nghệ thuật người Việt được biến hóa thành một đồ án đẹp một cách ma quái. Đền Kim Liên, một trong những Thăng Long tứ trấn xuất hiện đồ án sen hóa Rahu. Sự biến hóa này còn xuất hiện trên giáp phục của các pho tượng hộ pháp Khuyến Thiện Trừng Ác – một vẻ đẹp liêu trai không dễ tìm thấy trong mỹ thuật Trung Hoa. Mỹ thuật thời Nguyễn thường vẫn bị coi là mỹ thuật chịu nhiều ảnh hưởng Trung Hoa, nhưng đồ án Rahu là một ngoại lệ xuất sắc, phổ biến từ suốt từ Nam ra Bắc, có cả ở đình chùa đền miếu, lăng tẩm, đền đài cho tới dinh thự hoàng cung, hiện diện từ đồ tế khí tới trang trí kiến trúc với hầu hết các chất liệu từ gạch gốm, gỗ, sành, v.v. cho đến vải vóc lụa là. Cùng với hình tượng Nghê, đây là một trong những con vật linh đặc sắc và khó giải mã nhất của người Việt. 

“Hình ảnh Rahu ở Việt Nam với hình ảnh “long hàm thọ” là một sáng tạo riêng của người Việt.”
La Hầu được đắp trên đầu hồi đền Kim Liên, Hà Nội. Nguồn: Trần Hậu Yên Thế, “Đi tìm khuôn mặt La Hầu”, NXB Mỹ thuật, 2024.
La Hầu trang trí trên đầu hồi lăng Kiên Thái Vương.
Chi tiết La Hầu trang trí lăng Khải Định (Ứng lăng). Nguồn: Lê Bích.
La Hầu trang trí trên đầu hồi đình Vân Sa, Hà Nội. Nguồn: Trần Trung Hiếu, “Đi tìm khuôn mặt La Hầu”, NXB Mỹ thuật, 2024.
Sen hóa La Hầu trang trí trên trán bia thời Lê Trung Hưng, thác bản. Nguồn: Trần Hậu Yên Thế, “Đi tìm khuôn mặt La Hầu”, NXB Mỹ thuật, 2024.

Thành ngữ “năm cha ba mẹ” là một cách diễn đạt dân gian rất độc đáo và sâu sắc về sự phức tạp của nguồn gốc, đặc biệt khi nhìn nhận trong bối cảnh văn hóa Việt Nam. Nằm ở vị trí địa lý giao thoa giữa các nền văn minh lớn như Trung Hoa và Đông Nam Á, Việt Nam đã tiếp thu, chọn lọc và hòa quyện những giá trị văn hóa khác nhau để tạo nên bản sắc riêng. Chiến tranh, các cuộc di cư, hôn nhân đa văn hóa, v.v. tất cả đều góp phần tạo nên những lớp lang nguồn gốc đa dạng cho mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Trong cuốn sách “Tiếp xúc với nghệ thuật” (Viện Mỹ thuật, 1998), Thái Bá Vân từng viết, “Nước Việt Nam xưa nay vốn có cái may mắn và tự hào là đứng trên đường qua lại của nhiều nền văn hoá. Lịch sử bảo rằng cái đó không phải là trở ngại, đã làm cho chúng ta lai tạp, mà đó mới là thuận lợi địa lý, để cho Việt Nam ta còn Việt Nam hơn.” Qua khảo sát những nguồn gốc văn hóa của đồ án La Hầu, vẫn thường được gọi là hổ phù, chúng ta thấy những những lớp văn hóa chồng lấp, xen kẽ đã tạo nên Việt Nam quyến rũ hơn với vẻ đẹp đa sắc hôm nay.

Đồ án La Hầu trong thiết kế ứng dụng đương đại. Nguồn: Bối Ân.


Words: Trần Hậu Yên Thế






Art Nation

Art Nation là ấn phẩm nghệ thuật song ngữ duy nhất và hàng đầu tại Việt Nam. Với đội ngũ biên tập chuyên nghiệp, chúng tôi mang đến những ấn phẩm chất lượng cao, hướng đến sứ mệnh lan tỏa giáo dục nghệ thuật cho công chúng.

Bài viết liên quan

Lao động văn hóa và những bất mãn

Triển lãm “Phương tiện sản xuất” được tổ chức và giám tuyển bởi Lunch Hour, diễn ra từ ngày 18 tháng 5 đến 31 tháng 7 năm 2024.

Ấn phẩm