
Một buổi sớm đầu hè, tôi có dịp ghé thăm không gian sống đậm dấu ấn thời gian của Ngọc Linh. Ở tuổi 95, bác vẫn đều đặn lưu giữ lại mọi chuyện diễn ra trong ngày từ bữa ăn, những cuộc gặp gỡ cho đến các sự kiện thời sự. Bác chỉ cho tôi xem những chồng nhật ký đã ghi chép suốt nhiều năm và say sưa giới thiệu 3 cuốn sách ảnh lưu giữ 750 khoảnh khắc trong triển lãm cá nhân “Con đường của tôi” của bác được tổ chức tại Đại học Mỹ thuật Việt Nam, từ ngày 25 tháng 2 đến ngày 5 tháng 3 năm 2025. Bác xưng “bác–cháu” với tôi, gần gũi và đầy nhiệt huyết chia sẻ về khóa học đặc biệt – Khóa Kháng chiến, tuổi trẻ vẫn đang âm ỉ cháy trong tim bác.
Cơ duyên nào đã đưa bác đến với trường Mỹ thuật Kháng chiến?
Khóa Kháng chiến của bác 25 năm nữa tròn 100 năm. Khóa này chính là chặng đường nối tiếp của Trường Mỹ thuật Đông Dương (EBAI), là khóa học mỹ thuật đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được giảng dạy trong vùng rừng núi chiến khu Việt Bắc và do Tô Ngọc Vân – vị hiệu trưởng đầu tiên phụ trách. Hồi đầu, bác đi làm y tá, theo anh rể Tôn Thất Tùng và anh Hoàng Đình Cầu lên mặt trận Cự Đà và Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông xưa. Lúc đó bác Võ Nguyên Giáp, bạn thân của anh Tùng cũng khuyên bác đi học trường lính, nhưng anh Tùng bảo để bác học thuốc, vừa phụ giúp anh, vừa trông nom các cháu. Hàng ngày, bác bón cho các chiến sỹ bị đánh bom, băng bó vết thương, tiêm thuốc cũng thành thạo. Thấy bệnh nhân khỏe lên mình cũng vui lắm nhưng nhìn các anh tướng tá, bác cũng thích, mới thưa với anh Tùng, “Anh ơi, em muốn đi bộ đội.” Sau đó bác chuyển sang học lục quân, khóa V. Năm 1950, bác học ở Phúc Trìu, Thái Nguyên, cùng khóa với anh Phạm Tuyên, anh Doãn Nho cho đến lúc tốt nghiệp. Có hôm bác đi bộ mấy cây số ra thị xã để lên Thái Nguyên thì gặp một anh cao cao đang đứng vẽ. Bác tò mò lại gần ngó xem. Thấy bác mặc áo bộ đội, anh ấy hỏi, “Chú thích vẽ lắm à?” Hóa ra đó là anh Trần Văn Cẩn. Bấy giờ đang thời kháng chiến, mọi chuyện đều bí mật lắm, nhưng có lẽ thấy bác thật lòng yêu vẽ nên anh Cẩn mới cho biết có trường mỹ thuật, sắp tuyển sinh ở Đại Từ, Thái Nguyên. Bác mừng lắm, liền nhờ anh Tôn Thất Tùng viết giấy giới thiệu xin phép trường sỹ quan lục quân đồng ý cho bác chuyển sang học mỹ thuật. Thế là bác ra Đại Từ. Ngẫm lại, nếu tiếp tục ở lại bộ đội, bác cũng sẽ xông trận, vì mình đã học đủ cả lăn lê, bò toài, chiến đấu, đủ hết rồi!
“Thấy bác mặc áo bộ đội, anh ấy hỏi, “Chú thích vẽ lắm à?” Hóa ra đó là anh Trần Văn Cẩn. “
Trong hoàn cảnh chiến tranh khó khăn, lại xuất phát từ trường lục quân, bác đã thi vào trường mỹ thuật như thế nào?
Hồi đấy không thi đông như bây giờ mà chia tốp nhỏ, mỗi ngày chỉ 2 đến 3 người thi thôi. Phần vì chiến tranh, đi lại khó khăn, phần vì mỗi người đến từ một vùng khác nhau. Như Huy Hòa thì từ Nghệ An ra, Ngô Mạnh Lân thì ở Phú Thọ, nên cứ hai, ba người sẽ thi một đợt, mỗi đợt kéo dài hai ngày liên tiếp, với hai bài thi gồm hình họa và bố cục màu. Bác thi cùng Lê Lam với Thục Phi. Trước hôm thi, anh Tô Ngọc Vân giới thiệu và động viên, “Ngày mai các em thi nhé, thầy Bùi Trang Chước, người rất giỏi đồ họa, sẽ dạy các em, cố gắng thi.” Lúc đó, thầy Trần Văn Cẩn, thầy Nguyễn Sỹ Ngọc thì còn ở Thanh Hóa, ở trường chỉ có các thầy Bùi Trang Chước, Nguyễn Khang và Tô Ngọc Vân. Hội đồng chấm thi có cả thầy Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Sỹ Ngọc tham gia chấm cùng.
Ban đầu vào trường có khoảng 24 học sinh, nhưng sau chỉ còn 22 người theo học. Nhà nước cấp cho mỗi học sinh 20kg gạo mỗi tháng, gồm cả tiền học bổng, ăn uống và màu vẽ. Bác học được vài tháng thì không được nhà nước trợ cấp nữa nhưng vì thích hội hoạ nên bác tìm đủ mọi cách xoay xở. Thành ra cứ buổi sáng học vẽ thì chiều bác vào rừng kiếm củi đổi cho các anh bên Hội Kiến trúc sư, gồm các tên tuổi đầu ngành ngày ấy là Nguyễn Cao Luyện và Hoàng Như Tiếp, để đổi lấy gạo. Bác đem gạo về trường dùng chứ không ăn của anh em. Một số anh khác vì hoàn cảnh gia đình khó khăn quá nên đành xin nghỉ, không theo học nữa. Trong lớp 22 người, chỉ có Thục Phi và bác là hai người chưa từng học vẽ bài bản bao giờ. Hồi nhỏ, trước Cách mạng, bác theo anh Tùng, trước đó nữa lại sống với ông nội là Tổng đốc Vi Văn Định ở Hà Nội. Từ bé, bác đã hay đi bộ từ phố Nguyễn Du gần hồ Halais ra Rạp Tháng Tám xem phim. Mỗi lần vậy, bác lại xin tờ programme (giới thiệu chương trình phim) về, lấy giấy can vẽ lại hình, tối tối chiếu bóng lên tường, tự mày mò học. Dòng họ Vi nhà bác hầu hết mọi người đi theo ngành y và làm khoa học, chỉ mỗi bác rẽ sang con đường hội họa. Sau này mới có thêm các thế hệ sau tiếp nối nghiệp vẽ của bác.
Việc học tập lúc đó ra sao, thưa bác? Các thầy đã hướng dẫn học trò như thế nào trong điều kiện chiến tranh?
Do chiến tranh nên trường phải di chuyển liên tục, từ Tuyên Quang sang Yên Bình, Phú Thọ. Các thầy có Trần Văn Cẩn, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Khang, Bùi Trang Chước, Nguyễn Sỹ Ngọc, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Tư Nghiêm. Học sinh và thầy giáo cùng ăn ở trong làng với dân hết, học tập trung sẽ học dưới nhà sàn. Học sinh với các thầy không gọi là thầy trò mà gọi nhau như anh em trong nhà ấy. Mỗi tuần có bài trang trí, hình họa và phong cảnh. Vẽ trang trí có thầy Bùi Trang Chước phụ trách chính. Về hình hoạ thì các thầy đều theo dõi. Khác với EBAI, sau này do chiến tranh nên trường Kháng chiến không vẽ khỏa thân. Mẫu vẽ có cô Huệ, trước chiến tranh cô ấy là mẫu hay được thầy Vân vẽ, bấy giờ đi theo trường cũng làm mẫu cho học sinh vẽ. Ngoài ra lớp còn vẽ anh Vững cấp dưỡng. Ở cùng dân làng, trường nhờ được cả các cụ già làm mẫu. Bác nhớ có cụ Đào. Nhiều khi học sinh thay phiên làm mẫu cho nhau, như Đào Đức vẽ Lê Lam rồi đổi vai. Chiến tranh mà, có như nào mình ứng biến như thế. Vẽ ký hoạ thì thường sau khi chào cờ buổi sáng, cả lớp chia tốp tản mạn xuống bản, di tản vào các làng. Các thầy đi sau, vẽ phong cảnh, nếu thầy gặp sẽ xem tranh rồi chỉ thêm cho mình. Ở khóa bác rất vui, sáng đi vẽ còn giúp người dân xay gạo xay ngô, cấy cày. Họ quý lắm, con gà đẻ quả trứng còn để dành cho mình bồi dưỡng thêm. Các thầy chỉ dạy rất tận tình. Như thầy Nghiêm còn mang theo mấy cuốn sách về danh họa châu Âu như Gauguin, Matisse, v.v. ra tận kháng chiến để giới thiệu thêm cho học sinh. Lớp bác hồi đó có Đào Đức với Trọng Kiệm thích Gauguin, Lưu Công Nhân thích Monet.

Học là thế, vậy còn chấm bài thì sao ạ?
Chấm bài thì hằng tuần các thầy tập trung học sinh ở dưới nhà sàn rồi thầy trò bảo nhau căng dây, lấy lạt, nứa chẻ ra làm thành cái kẹp trông như mắc áo, kẹp các bài tập giấy bản lên để vừa xem vừa chấm. Mỗi tuần một học sinh được chỉ định lên xếp hạng. Ví dụ như tuần này Lưu Công Nhân chấm bài, chấm của 21 anh và cả của bản thân bằng cách xếp theo thứ tự từ cao tới thấp rồi các thầy đứng xem. Bản thân người đó phải giải thích mình chọn bức này vì bố cục, về màu, về hình hoặc những phát hiện thú vị để luyện cho mình thói quen quan sát. Ai cũng phải lên khi tới lượt.
Bác có thể kể thêm về những hoạt động triển lãm của lớp mình trong thời kỳ Kháng chiến không ạ?
Lớp bác hồi đó học vẽ ký họa giỏi mà vẽ tranh cổ động cũng giỏi lắm. Thời chiến tranh, bọn bác vừa vẽ, vừa mang tranh đi các chợ, lên Lào Cai, Yên Bái tổ chức trưng bày cho bà con xem. Nội dung tranh chủ yếu là để tuyên truyền: vận động bà con xuống ruộng cày cấy, tham gia phong trào, đóng thuế, góp gạo cho nhà nước, nhằm mục đích giải thích chính sách tạm vay vụ chiêm của chính phủ. Công chúng từ các làng bản kéo ra xem rất đông. Cũng năm 1951 ấy, cuối năm cả lớp bác lên Lào Cai, Yên Bái vẽ để chuẩn bị triển lãm mỹ thuật. Lúc đó, có cả các họa sỹ như Quang Phòng, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng – mấy anh ấy hồi cách mạng nổ ra vẫn chưa học xong khóa nên phải lên gặp thầy Tô Ngọc Vân làm bài thi ra trường. Triển lãm lần ấy có cả Phan Thông, Nguyễn Quốc Ân và nhiều anh em khác. Nhân dân hưởng ứng nhiệt tình, không khí rất trọng thể. Bác gửi một bức tranh vẽ cảnh bà con gánh gạo đóng thuế nông nghiệp. Hôm đó, đặc biệt lắm, có cả Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên, Quyền trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại về dự. Hồ Chủ tịch cũng gửi thư động viên, chúc mừng, hoan nghênh triển lãm mỹ thuật tới đoàn thể anh em họa sỹ. Sau này, khi hòa bình lập lại, Khóa Kháng chiến tổ chức tổng cộng bốn lần triển lãm, lần nào bác cũng đứng ra phụ trách tổ chức cùng anh em. Năm 1954 bày ở Nhà Thông tin Triển lãm trên phố Tràng Tiền. Hai lần sau triển lãm ở số 16 Ngô Quyền. Riêng lần cuối cùng vào năm 1993, bác vận động được Quỹ Phát triển Văn hoá Thuỵ Điển-Việt Nam ở phố Trần Hưng Đạo tài trợ để in vựng tập triển lãm tại Nhà in Tiến Bộ.



“ Thời chiến tranh, bọn bác vừa vẽ, vừa mang tranh đi các chợ, lên Lào Cai, Yên Bái tổ chức trưng bày cho bà con xem. […] Nhân dân hưởng ứng nhiệt tình, không khí rất trọng thể.”
Trong suốt chặng đường dài từ những ngày còn theo học cho đến khi không ngừng cống hiến cho mỹ thuật, đâu là kim chỉ nam mà bác luôn giữ gìn và soi chiếu trong suốt cuộc đời làm nghề?
Bác nhớ trước ngày bế giảng lớp học, thầy Tô Ngọc Vân có nói nhận công tác ở đâu hãy nhớ đem hội họa phục vụ nhân dân. Nhận của nhân dân cơm áo, trả lại nhân dân bằng hội họa; vẽ cho nhân dân xem để hiểu, phải yêu nghệ thuật, yêu nghề, tận tụy với sự nghiệp của mình. Tâm huyết ấy của thầy yêu quý gửi trò, đến giờ bác vẫn luôn nhớ mãi.

Words: Tâm Phạm


