
Chị em mình hát karaoke nhé.
Ha ha, được.
Trong 3 giây, chị nói tên một bài đi.
Xuân đã đến bên em… (và nhảy)
Sao chị nghĩ đến bài đó?
Vì mùa xuân có nhiều hoa.
Đúng rồi, chị mình yêu hoa.
Ừ, hoa đẹp mà.
…
Chị thích hoa sen. Thích lắm.
Sáu tuổi, ở trại tị nạn ở Hồng Kông. Chị thường đi một mình vào rừng, đến một cái đầm sen. Chị không biết tại sao. Chị chỉ nhớ cảm giác tốt ở đầm sen đó. Đẹp, yên tĩnh. Trái ngược với thời điểm đó.
Chị thích sự rực rỡ, sự đa dạng về màu sắc của những bông hoa. Chắc là vì chị sinh ra ở Thủy Nguyên. Khi nhớ về quê hương, chị nghĩ về ngôi làng cũ. Làng chị nhiều hoa lắm. Trước khi rời Việt Nam, chị nhớ là chị rất thích hoa xấu hổ, chị rất thích hạt cườm cườm, chị thích màu đỏ của hoa phượng. Chị nhớ anh chị em họ chị đi chơi, đi vặt hoa. Chị nhớ anh chị cõng chị…
Nhưng mà thôi, chị thay cái váy hoa nhé (cười lớn).
Em cảm thấy chị đúng là chị nhất khi chị mặc váy hoa. Vậy mà lần nào gặp chị cũng quần jean, áo thun, xám, đen, trơn.
Chị thích diện váy hoa là thật. Gia đình chị ai cũng ăn diện. Ông nội chị khắt khe về bề ngoài. Quần áo phải chỉnh tề, phải là lượt. Mà có mấy khi được diện đâu em. Chỗ chị sống chẳng có ai để diện cùng.
Trong tác phẩm đầu tiên vẽ hoa, Quỳnh Đồng trong trang phục áo hoodie, quần nỉ giữ nhiệt rộng thùng thình, ngồi sao chép cái bóng của hoa sen lên các trang giấy trắng. Cái bóng ở đây là ký ức. Trên mỗi tờ giấy, ký ức được vẽ lại lần nữa. Lặp lại trong suốt một giờ đồng hồ.
Hoa là cách để chị đặt ra các câu hỏi. Hoa trong “Hôm qua”, hay trong nhiều tác phẩm khác của chị là biểu tượng của sự phù du, cho cảm xúc, ký ức và cho lịch sử. Chúng đơn sắc. Sau “Hôm qua”, hoa và người phụ nữ trong tác phẩm của chị thường rực rỡ, một sự phóng đại của khuôn mẫu phụ nữ châu Á.
Chị yêu hoa đến như vậy, nhưng sao “Giáng sinh ngọt ngào” 2013 lại toàn là hoa giả rẻ tiền?
Năm 2002, lần đầu chị trở lại Việt Nam kể từ năm 1987, chị đã nhìn thấy tác phẩm “Vườn xuân Trung Nam Bắc” của Nguyễn Gia Trí. Bức này đã truyền cảm hứng cho tác phẩm này, và tranh sơn mài của ông cũng tạo cảm hứng cho nhiều tác phẩm khác của chị. Năm 2012, chị tham gia lưu trú nghệ thuật ở The International Studio & Curatorial Program ở New York, chị đã suy nghĩ về mối quan hệ của mình với nghệ thuật Việt Nam, về hình tượng người phụ nữ trong nghệ thuật châu Á, cũng như suy nghĩ về việc đọc một tác phẩm nghệ thuật khi mình không hiểu biết bối cảnh văn hóa của nó. Chị đã vào một cửa hàng bán đồ dành riêng cho Sweet 16, một hoạt động văn hóa phổ biến ở Hoa Kỳ và Canada vào sinh nhật tuổi 16. Chị mua hoa giả ở đó làm sân khấu. Còn chị thì sao chép lại 11 tư thế điệu đà theo các công thức nữ tính trong tranh. Chị đặt tên nó là “Giáng sinh ngọt ngào”. Nó là thông ngôn mới của chị cho tác phẩm của Nguyễn Gia Trí. Và đó cũng là sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa di sản và cá nhân, đặc biệt là qua lăng kính của một người sống giữa hai nền văn hóa.

“Cực sến là một trường hợp cực đoan thường bị bỏ qua, cái được gọi là sến của giới tinh hoa, thị hiếu tồi của nền văn hóa cao cấp. Thật vậy, văn hóa tinh hoa có xu hướng chống lại sự hội nhập và tính chuẩn hóa, vốn là đặc trưng của sản phẩm đại chúng và tiêu dùng. Chính vì vậy, khi so sánh với cái thực, các sản phẩm của các nhóm tiên phong giả tạo thường không có gì hơn cái vẻ ngoài khó hiểu, mờ nhạt, dễ dãi, cố tình gây sốc cho giới tư sản. Yếu tố giả tạo xuất hiện ở khắp mọi nơi trong những trường hợp siêu sến súa như tình yêu, nỗi đau, sự ra đời và cái chết được chuyển thành những cảm xúc hời hợt hoặc những câu nói dí dỏm khoái lạc”.
– Gillo Dorfles, “Kitsch – An Anthology Of Bad”, tr. 34, 35.
Tốt nghiệp Mỹ thuật tại Đại học Nghệ thuật Bern năm 2008 và hoàn thành bằng Thạc sỹ Nghệ thuật Mỹ thuật tại Đại học Nghệ thuật Zurich năm 2010, Quỳnh Đồng rẽ hướng khỏi nền tảng vững chắc về thẩm mỹ hiện đại phương Tây. Chị chọn việc thực hành mang tính “camp” (một khái niệm được lan rộng bởi Susan Sontag, tạm dịch là “lố”) các yếu tố cực sến của thẩm mỹ đại chúng Á Đông.

Chị nghĩ là sáu năm đầu đời rất quan trọng để hình thành một con người. Sáu năm đó chị ở Thủy Nguyên, ở với cây cối, đất đá, anh chị em họ và nhiều con vật. Một cô bé ở độ tuổi ấy thích cái gì, thì nó là cả thế giới. Đồ chơi nhựa lúc đó rất quý giá. Khi sang Hồng Kông, đồ chơi nhựa rất nhiều, văn hóa đại chúng tràn ngập. Nhưng chị thì không còn ở quê hương, phải xa ông bà mình. Màu sắc rực rỡ và sự nhiều lặp lại nhiều lần như cái sự nhiều của hoa phượng, cũng đồng thời gợi nhắc đến sự nhiều của văn hóa đại chúng bao quanh chị trong suốt ba năm chị sống ở Hồng Kông. Chị lớn lên với thẩm mỹ văn hóa đại chúng. Chị cần nó, cần sự thân thuộc đó.
Cá nhân chị nghĩ gì về “sến” ư? Sến với chị là cảm xúc, là sự nhớ thương về quá khứ. Chị thích sến. Sến ở trong chị. Sến bao hàm nhiều. Thông qua sến, chị muốn kể chuyện một cách thẳng thắn. Thông qua sến, chị muốn tiếp cận khán giả một cách gần gũi.
Con người ta luôn có một cách suy nghĩ mang tính khuôn mẫu về một nền văn hóa. Chị chọn việc thách thức các định kiến đó. Mà có lẽ đúng hơn, chị tìm kiếm những cuộc đối thoại thông qua các thách thức đó.
“Hãy nhìn nhận trường hợp sến được sử dụng có chủ ý và đầy nhận thức bởi những người hay nghệ sỹ ngày nay, những người nhận thức sự tồn tại của tính sến súa, sử dụng nó cho những mục đích hoàn toàn trái ngược. Nỗ lực đó cứu vãn khái niệm sến, mang lại hương vị tươi ngon hơn từ “trái cấm” của những người thuộc giới tinh hoa văn hóa v.v.”
– Gillo Dorfles, “Kitsch – An Anthology Of Bad”, tr. 293.
Chủ nghĩa sến trong nghệ thuật được đón nhận khác nhau tùy theo từng nơi. Ở Mỹ, những nghệ sỹ như Andy Warhol hay Jeff Koons, đã định vị việc sử dụng các đối tượng của văn hóa đại chúng. Điều này rất khác với cách tiếp cận ở châu Âu. Khái niệm “sến” ở Việt Nam cũng khác với cách tiếp cận ở bên đó. Chị không phủ nhận, không chế giễu cái đẹp, hay quan điểm về cái đẹp của bất cứ nền văn hóa nào. Chị đặt câu hỏi về định nghĩa của cái đẹp, ai định nghĩa nó. Chị tôn vinh sự đa dạng và phức tạp của chúng. Chị nhìn nhận tác phẩm của mình như cách mở rộng các chuẩn mực về thẩm mỹ, để công nhận vẻ đẹp “sặc sỡ” và sự “ồn ào” mà chúng ta có thể tìm thấy trong nhiều hình thức.
Trong các tác phẩm của mình, Quỳnh Đồng sắp đặt các hình mẫu cực thực tế, tạo ra một trật tự lộn xộn đầy hài hước cho các quan điểm về sự nữ tính, hôn sự, gia đình hay tình cảm cá nhân, v.v. Đó là các hình tượng phụ nữ trong tranh sơn mài, là chim hoa, cá, cảnh trong nghệ thuật Á châu, là nhạc nền phim Tây Du Ký, là nhóm nhạc pop trong bối cảnh diêm dúa đến ngây ngô, là những tình khúc ướt át trong karaoke của Paris By Night v.v.… Quỳnh Đồng thích hát. Karaoke xuất hiện trong rất nhiều trình diễn. Những tình khúc bị cho là sến xuất hiện tại nhiều bảo tàng, phòng triển lãm trên thế giới.


Chắc chị sến cũng vì karaoke (cười lớn). Những năm 1990, lúc đó chưa có Internet. Mẹ chị bị lãng tai. Chị lớn lên với karaoke. Chị học tiếng Việt qua karaoke. Văn của chị là văn thất tình trong karaoke. Ký ức của chị to như cái loa ở làng, giọng hát luôn vang vọng lại với tiếng vọng. Chị thích karaoke, sẽ mãi hát karaoke.
Khán giả quốc tế và Việt Nam phản ứng với tác phẩm của chị như thế nào?
Việc thông ngôn, hay các cường hóa các thị hiếu văn hóa rất phổ biến ở châu Âu. Thế giới nghệ thuật ở châu Á lại khác. Ở Việt Nam cũng khác. Chị thích nghệ thuật chuyển hóa một tác phẩm qua lăng kính của riêng chị. Khi làm điều đó, chị rất tò mò về cách khán giả sẽ đọc tác phẩm của mình.
Như lúc chị em mình xem tác phẩm “Biển đen với cá vàng” ở triển lãm “Đó là năm XXXX” vừa rồi, người không biết về tác phẩm sơn mài của Phạm Hậu sẽ thấy khác, người biết sẽ đọc các chuyển động của nghệ sỹ múa butoh Valentin Tszin là những con sóng, là mây, là con cá vàng, là con sếu đang chực chờ ăn mồi. Em thì hiểu biết về butoh, em lại đọc ra tính chuyển hóa giữa cơ thể vật lý và tinh thần như một nghi lễ pha trộn Phật Giáo và Thần Giáo. Những cách đọc đó làm chị vui lắm.
Chị vui mỗi khi chị có tác phẩm triển lãm ở Việt Nam. Khán giả hỏi và trò chuyện với mình. Lúc phỏng vấn, em nói chị có thể trả lời bằng tiếng Anh hoặc tiếng Đức. Chị vẫn chọn tiếng Việt để trò chuyện với em dù khó để diễn giải hết được. Chị thích nói tiếng Việt. Cái hạnh phúc của một người xa quê là được quê hương đón nhận.
“Khái niệm “sến” ở Việt Nam cũng khác với cách tiếp cận ở bên đó. Chị không phủ nhận, không chế giễu cái đẹp, hay quan điểm về cái đẹp của bất cứ nền văn hóa nào.

Bài: BUC


