Hôm nay đánh thức con diều

Vũ Đỗ là học giả Fulbright Việt Nam đầu tiên về ngành bảo tồn tại Đại học SUNY Buffalo State, Hoa Kỳ. Anh tốt nghiệp chuyên ngành Hội hoạ tại Viện Hàn lâm Mỹ thuật Pennsylvania ở Philadelphia. Hiện tại, anh đang nghiên cứu và học tập tại Khoa Bảo tồn Hiện vật của Bảo tàng quốc gia Mỹ (National Gallery of Art) Washington DC.
Vũ Đỗ tại Bảo tàng Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Smithsonian.

Chào anh, xin anh chia sẻ về thời điểm anh phát hiện ra con diều Huế tại Bảo tàng Hàng không và Vũ trụ quốc gia Smithsonian, Hoa Kỳ?

Khi tôi đến tham quan phòng thí nghiệm của Bảo tàng Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Smithsonian (NASM), tôi được biết nơi này có hai cơ sở: một nằm ở trung tâm Washington DC, cơ sở còn lại nằm ở ngoại ô Virginia, khá xa, nhưng lại là nơi lưu trữ kho vận và có phòng thí nghiệm bảo tồn chính. Là người làm trong lĩnh vực bảo tồn nghệ thuật, tôi rất tò mò, và vì những buổi tham quan như thế cũng khá phổ biến, họ thường xuyên đón tiếp các chuyên gia đến giao lưu, nên tôi đã hẹn đến tham quan. Trong lúc tham quan, tôi bất ngờ nhìn thấy một lá cờ Việt Nam và một chiếc diều. Lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã gần hoàn tất quá trình phục chế. Còn chiếc diều khiến tôi thực sự ngạc nhiên vì nó quá lớn, chiếm gần hết một chiếc bàn. Hình dáng của nó cũng rất đặc biệt, được làm từ một loại giấy khác thường. Tôi chia sẻ với họ rằng tôi rất quan tâm đến những hiện vật này vì ở Việt Nam có phong trào nghiên cứu và phục dựng những món đồ chơi truyền thống. Vì vậy tôi nói với họ rằng chiếc diều này rất quý, và tôi chưa từng nghe đến một bộ sưu tập diều nào như thế ở Việt Nam. Tôi đề xuất được nghiên cứu kỹ hơn về nó, với hy vọng có thể chia sẻ lại cho công chúng Việt Nam và giới nghiên cứu. Tôi cũng muốn tìm hiểu về hành trình từ Việt Nam đến Mỹ của chiếc diều này.

Khi bắt tay vào nghiên cứu, ngoài việc khảo sát cấu trúc diều, nhờ sự hỗ trợ của chuyên viên lưu trữ David Schwartz và giám tuyển Caroline, tôi đã tìm thấy hai bức thư trao đổi giữa Đại tá không quân Robert C. “Bob” Mikesh và giám tuyển Paul E. Garber tại Smithsonian. Theo thư, ông Mikesh từng là chuyên viên làm nhiệm vụ ở Huế. Trong một lần bay, ông thấy những vật thể giống như chim. Đến gần ông mới phát hiện ra đó là những cánh diều. Thấy thú vị quá, ông liền gửi thư cho ông Garber về việc có thể đem một con diều như thế về Mỹ để gửi vào bộ sưu tập của bảo tàng. Ông Mikesh đã đặt hàng một nghệ nhân làm diều ở Huế, sau đó tự đóng hộp gỗ để gửi về Mỹ. Tuy nhiên, chiếc hộp từng bị ướt do bị phơi một đêm dưới trời mưa tại sân bay Đà Nẵng, khiến đuôi diều bị ngấm nước và biến dạng. Tôi cũng đã tìm thấy ảnh tư liệu về một số vết rách trên chiếc đuôi. Trong thư, ông Garber trăn trở về cách để phục chế lại những vết rách ấy. Khi thao tác phục chế, một số băng dính cũ trên các vết rách vẫn được chúng tôi giữ nguyên như một phần của câu chuyện hiện vật, tức một phần của lịch sử. Chiếc diều hẳn đã có một thời gian được treo trong văn phòng ông Garber nhưng rồi rơi vào quên lãng suốt gần 60 năm, cho đến khi tôi phát hiện lại.

Hình ảnh con diều sau khi phục chế.
Quá trình phục chế con diều.
Quá trình phục chế con diều.

Một con diều vốn không phải là thứ được làm ra để tồn tại lâu. Nó được tạo tác, bay lên không trung, rồi kết thúc vòng đời khi gặp một sự cố nào đó rất thường xảy ra với cấu trúc vốn mỏng manh, nhất là loại diều truyền thống bằng giấy dó và tre, gỗ, chứ không phải các chất liệu công nghiệp như ngày nay. Con diều này đã đi qua hành trình như thế nào để tồn tại đến tận giờ, thưa anh?

Đúng như câu hỏi, vật liệu làm diều truyền thống thường là giấy dó, tre, gỗ. Thậm chí, ngày bé, những chiếc diều tôi thấy còn làm bằng giấy báo. Tuy nhiên, chiếc diều này thì không phải làm từ vật liệu truyền thống, mà là vật liệu hiện đại. Là họa sỹ và người thực hành nghệ thuật, tôi nghĩ nghệ nhân hay nghệ sỹ luôn muốn cập nhật những vật liệu tối ưu. Dùng vật liệu công nghiệp không hẳn là đi vào lối mòn, mà có thể xem là sự nâng cấp cho những con diều hiện đại.

Tôi nghĩ bản thân con diều này khác với những con diều bình thường bởi vì nó được làm từ giấy glassine, loại giấy hiện đại, có độ bóng và dai nhất định. Nó chống nước một phần và bền hơn giấy thường. Bề mặt giấy trông giống như giấy nến, giấy gói kẹo – tôi cho rằng đây là một cải tiến kỹ thuật đáng chú ý từ nghệ nhân. Ông ấy hiểu rằng người đặt hàng là một vị khách nước ngoài, một phi công chuẩn bị có một chuyến đi dài trở về Mỹ, nên ông đã hoàn thiện chiếc diều vô cùng tâm huyết và cẩn thận. Ông còn cắt sợi nylon, bọc giấy bạc vào phần chân diều để tạo hiệu ứng phát sáng khi diều lắc trên không trung. Tôi nghĩ nếu trao đổi kỹ với các chuyên gia về diều, có thể đi sâu hơn vào khía cạnh khí động học của thiết kế này.

Quá trình phục chế con diều.
Hình ảnh con diều sau khi phục chế.

Các thao tác kỹ thuật mà anh và đội ngũ đã thực hiện đòi hỏi trình độ và cơ sở vật chất như thế nào so với tương quan các nước trên thế giới và Việt Nam?

Trước tiên, về cơ sở vật chất – phòng thí nghiệm và bảo tồn của Smithsonian là một trong những nơi hàng đầu thế giới. Không gian rất lớn, đủ chứa vài chiếc máy bay Boeing, nhưng vẫn kiểm soát được độ ẩm 50% và nhiệt độ 21°C suốt 24/7 – một tiêu chuẩn rất tốn kém, chỉ các bảo tàng lớn mới làm được. Không những vậy họ còn có những kho chứa đặc biệt được thiết kế riêng với môi trường phù hợp cho từng chủng loại hiện vật. Phần lớn các hiện vật được bảo quản trong môi trường có nhiệt độ 16,6°C với độ ẩm 40%. Việc đầu tư cho bảo quản như thế này đã giảm thiểu một lượng lớn công việc cho các chuyên gia bảo tồn và kéo dài tối đa tuổi thọ lưu giữ hiện vật. Khoa bảo tồn của NASM không chỉ có các chuyên gia bảo tồn nghệ thuật mà còn là sự kết hợp với các kỹ sư hàng không, chuyên gia của NASA. Cũng dễ hiểu khi các thiết bị này được chào đón ở đây sau khi ngừng hoạt động ở NASA.

Về thiết bị phân tích hỗ trợ công tác phục chế, họ có máy chụp X-quang, giúp phân tích cấu trúc, các loại kính hiển vi phân cực, máy FTIR. Họ cũng chuẩn bị những thiết bị chụp ảnh, ngoài ánh sáng bình thường còn có thêm ánh sáng với tia cực tím. Ngoài ra, Smithsonian còn liên kết với Viện Bảo tồn Bảo tàng (Museum Conservation Institute) với những chuyên gia và các nhà khoa học giàu kinh nghiệm. Ở đó, các thiết bị còn được đầu tư kỹ lưỡng hơn để có thể làm những loại xét nghiệm phức tạp – từ phân tích ADN, CT-scan, Py-GCMS, hyperspectral camera, scanning và mapping XRF.

Về nhân sự, để trở thành một chuyên gia bảo tồn tại Mỹ phải trải qua quá trình đào tạo rất dài: từ 10–15 năm tính từ bậc đại học, thực tập, thạc sỹ rồi nghiên cứu sinh mới có thể hành nghề. Ở Mỹ chỉ có 4 trường có chương trình đào tạo thạc sỹ bảo tồn nghệ thuật và một năm chỉ cho ra lò gần 30 người nên tính cạnh tranh rất cao. Ở Việt Nam hiện chưa có ngành học chính thức này. Vì vậy khi sang Mỹ, tôi luôn mong có thể mang những kiến thức học được trở về để chia sẻ cho mọi người và góp phần xây dựng chương trình đào tạo trong nước. Tôi xem ngành bảo tồn như một “kiềng ba chân” giữa khoa học, nghệ thuật và sự khéo léo của đôi bàn tay. Đây là chìa khóa kết nối giữa quá khứ và tương lai, giúp bảo tồn không chỉ hiện vật lịch sử mà còn gìn giữ những kết nối văn hoá, mở ra cả những câu chuyện về kỹ thuật, vật liệu đã và đang mai một.

Phân tích cấu trúc con diều bằng kính hiển vi.

Việc hoàn thành dự án phục chế con diều Huế để nó có thể tiếp tục đời sống ở cách nơi nó sinh ra nửa vòng trái đất, sau hơn nửa thế kỷ, vào đúng thời điểm kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, đã đem lại cho anh cảm xúc như thế nào?

Khi làm việc với hiện vật và đọc thư từ ở kho tư liệu, tôi cảm nhận rõ sự chỉn chu và cái tâm của người làm diều và người tiếp nhận. Ông Garber từng viết thư nhiều lần để hỏi thăm về người làm diều và gia đình họ, nhất là sau chiến dịch Mậu Thân năm 1968. Tuy vậy, ông không nhận được hồi đáp từ gia đình nghệ nhân, điều này khiến ông càng thêm trăn trở về an nguy của họ trong và sau chiến tranh. Sau khi lần theo những bức thư, tôi phát hiện ra những khoảng trống khi không tìm thấy thông tin về địa chỉ của gia đình người làm diều trong hồ sơ. Nhờ sự giúp đỡ của chuyên gia lưu trữ David Schwartz, sau khi truy cập nhiều thùng lớn tư liệu vào năm 1967–1968, chúng tôi may mắn tìm được những lời giải cho thắc mắc về con diều này.

Lúc đó, tôi nghĩ việc tìm kiếm sẽ không dễ dàng bởi sau chiến dịch Mậu Thân 1968, thành phố đã bị hư hại rất nhiều, và sau giải phóng tên đường phố cũng có thay đổi. Tôi liên hệ với anh Ace Lê từ Lân Tinh Foundation, lúc đó vừa tổ chức triển lãm tranh vua Hàm Nghi ở Huế, để nhờ giúp đỡ. Anh ấy kết nối tôi với họa sỹ trẻ Nguyễn Đức Niệm, và thật bất ngờ, Niệm đã tìm ra đúng địa chỉ xưa. Không những tìm kiếm trực tiếp, mà bạn ấy còn lên YouTube và tìm được thông tin về con đường ngày xưa tên là đường Võ Tánh, hiện giờ là đường Nguyễn Chí Thanh. Cuối cùng bạn ấy cũng hỏi được gia đình của người làm diều này và địa chỉ xưa – hiện đã trở thành nhà thờ họ và gặp được cháu ngoại của nghệ nhân làm diều.

Tôi lấy làm may mắn và xúc động bởi đây là một câu chuyện rất thú vị mà tôi muốn chia sẻ với mọi người ở Mỹ và cả ở Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 30 năm thiết lập mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Trong thư, ông Garber kể, tại một buổi thuyết trình về diều, ông  đã chia sẻ rằng nếu thay vì chiến tranh, những người lính ở hai phía đi thả diều cùng nhau thì “our boys could go home” (những người lính Mỹ có thể về nhà). Ông còn viết thêm rằng tất cả mọi người trong khán phòng đều vỗ tay khiến tôi cảm thấy như mình đang được hiện diện cùng họ. Chúng ta nhìn nhận câu chuyện dưới góc độ không chỉ về bảo tồn nghệ thuật mà còn như vật chứng lịch sử giữa hai nước, biểu tượng của sự hòa bình như những con diều bay tự do trên không trung.

Câu hỏi cuối cùng, anh có tự tin cho chú chim này tung cánh trên bầu trời nước Mỹ và cả Việt Nam không?

Rất nhiều người hỏi tôi rằng, sau khi phục chế, liệu con diều có thể bay lại được không? Thực ra câu chuyện này giống với việc ngai vua ở Huế bị hư hỏng, sau khi phục chế có ngồi được không? Từ góc độ chuyên môn, hiện vật bảo tàng không còn giữ chức năng ban đầu nữa. Cho nên không ai dám thả con diều này cả, bởi thực ra nó cũng đã rất yếu để có thể bay. Nhưng ông Garber cũng đã thể hiện mong muốn được chứng kiến cánh diều bay trong không trung. Ông từng gợi ý về việc muốn gửi một cuộn phim nhờ đại tá Mikesh ghi lại quá trình thả diều để có thể hình dung được cách diều bay, phần chân rung động, giấy bạc lấp lánh, cái đuôi phấp phới ra sao.

Tôi hy vọng với những dữ liệu và tư liệu đã có, chúng ta có thể phối hợp để phục dựng một bản sao con diều này tại Việt Nam. Sau đó, quay phim và gửi lại cho bảo tàng lưu trữ như một phần bổ sung của hiện vật. Đó chắc chắn là phần tiếp nối rất ý nghĩa, khi cánh diều tung bay ở Việt Nam, và biết đâu có thể bay cả ở Mỹ, như một hành trình biểu tượng của hoà bình, tự do và ký ức.

Xin cảm ơn sự chia sẻ của anh!

Words: ChuKim

Art Nation

Art Nation là ấn phẩm nghệ thuật song ngữ duy nhất và hàng đầu tại Việt Nam. Với đội ngũ biên tập chuyên nghiệp, chúng tôi mang đến những ấn phẩm chất lượng cao, hướng đến sứ mệnh lan tỏa giáo dục nghệ thuật cho công chúng.

Bài viết liên quan

Karaoke với người xa quê

Quỳnh Đồng được biết đến với các thực hành chuyển hóa cực thực thành siêu thực thông qua các biểu hiện cực sến nhằm làm mới lại các khái niệm về thẩm mỹ sáo rỗng.

Ấn phẩm