Nhãn quan về du hành
Mọi sự bắt đầu từ một cuốn sách, một cuốn sách đầy hình ảnh. Bên cạnh chuyên ngành nhiếp ảnh và truyền thông thị giác, tôi còn là một nhà sưu tập tư liệu, đặc biệt là ảnh cũ từ thời Đông Dương. Năm ngoái, tôi đã mua một tập ảnh nhỏ từ đầu thế kỷ 20, thuật lại chuyến đi từ Pháp đến Việt Nam của ông Barbet, một nhà sản xuất trà người Pháp. Những bức ảnh sống động và mang tính cá nhân này, trái ngược với phong cách thịnh hành của các bưu thiếp định dạng lúc bấy giờ, đã đưa tôi lên chiếc tàu biển Messageries Maritimes từ Marseilles (Pháp) đến Port-Said (Ai Cập), Aden (Yemen), Colombo (Sri Lanka), Singapore và sau đó là các bến cảng của Việt Nam. Đã nhiều lần, tôi tự mình bay trên tuyến đường từng được gọi là “Viễn Đông” hay “Extrême Orient” trong tiếng Pháp, nhưng đã rất lâu tôi mới có lại cảm giác như một người du hành thực sự.


Trong triển lãm với nhóm nghệ sỹ XEM, tập ảnh này đã được trưng bày tại Singapore cùng với những bức ảnh du lịch cá nhân của tôi. Tiến sỹ Bridget Tracy Tan, Giám đốc Viện Nghệ thuật Đông Nam Á, đã nói về “Dusty Road” được tôi chụp vào thập niên 1990: “‘Dusty Road’ là nhân cách hóa của sự nhìn thấy, như là sự thật, một kiểu thư tín ghi lại việc nhìn thấy, một cái nhìn về cách thế giới được phép quan sát”. Có phải tôi đã đánh mất nhãn quan của mình trong nề nếp di chuyển hàng không? Chắc hẳn phải có một cách mới để khám phá “Viễn Đông”, đặc biệt là Việt Nam, để hồi sinh sự phấn khích và cảm giác “đích xác như một giấc mơ thanh xuân”, như Goethe đã kể trong “Chuyến du hành đến Ý” (1786), cuốn sách du ký đầu tiên từng được viết.
Địa lý được xây dựng từ những câu chuyện
Một yếu tố quan trọng cấu thành nên một cuộc hành trình chính là những câu chuyện về nó. Dù được lan truyền rộng rãi hay vun giấu kỹ càng, những câu chuyện ấy luôn là chất xúc tác hữu hiệu để khơi gợi tâm trí ta. Những ý tưởng phổ biến về du hành vẫn khởi nguồn từ nhật ký của Goethe trong thời kỳ Lãng mạn, nơi mà những trải nghiệm sống và cảm xúc chân thật quan trọng hơn bối cảnh trong tiểu thuyết hư cấu. Trong một cơn khủng hoảng tứ tuần, Goethe đã bốc đồng quyết định tái sinh ở Ý. Và tất cả bắt đầu từ những lời kể của cha ông trong thời thơ ấu.
Tuy Marco Polo không phải là người châu Âu đầu tiên đặt chân đến châu Á, ông là người tiên phong trong việc ghi lại những cuộc phiêu lưu của mình trong “Sách về những kỳ quan của thế giới” (1460–1465), một cuốn sách bán chạy ngay tức thời. Được truyền cảm hứng từ tuyển tập này, thời đại Khám phá đã khởi phát vào thế kỷ 15 để đến với “terra incognita” (vùng đất chưa được khai phá) nơi Viễn Đông.
Trên bìa của cuốn sách bỏ túi dài 800 trang – “Miền Viễn Đông” (2011), nhà địa lý Phillipe Pelletier thêm tiêu đề phụ “phát minh của một lịch sử và địa lý” để nhấn mạnh một khái niệm kỳ tình về Viễn Đông. “Trước hết, vì một phần lớn tương lai thế giới chắc chắn đang được đặt cược ở đó. Nhưng sâu xa hơn, còn bởi Viễn Đông phần nhiều là một phát minh của phương Tây”.
Sự khởi thịnh của Đông phương luận
Vào thế kỷ 19, nhãn quan Âu tâm luận đã thúc đẩy ngành du lịch khi sự tiến bộ của giao thông vận tải và công nghệ làm cho việc di chuyển dễ dàng hơn cho công chúng. Sự ra đời của du lịch đại chúng do Thomas Cook khởi xướng trùng khớp với thời điểm Nicéphore Niépce phát minh ra bộ môn nhiếp ảnh vào năm 1839. Hai sự kiện này đã đẩy mạnh sự thịnh hành của Đông phương luận cùng nền thực dân, với chính sách được truyền thông lý giải và biện minh.
Các tạp chí như L’Illustration ở Pháp đã đặt ảnh chụp làm trọng tâm trong ấn phẩm: các bản vẽ đầu tiên được in bằng quy trình kỹ thuật khắc ảnh. Từ năm 1907, các ảnh chụp màu xuất hiện để tăng cường ấn tượng cần thiết về hiện thực.
Các triển lãm toàn cầu được tổ chức tại các thành phố châu Âu giới thiệu tới công chúng hiếu kỳ về người dân bản địa và văn hóa của các thuộc địa. Song le, sứ mệnh và nghiên cứu cũng được thực hiện trong các lĩnh vực như địa lý, dân tộc học, y học và các ngành khoa học khác, nhằm trau dồi kiến thức về vùng Viễn Đông.
Người dân thuộc địa đã chỉ trích và nổi dậy chống lại thực dân, nhưng một số ảnh hưởng từ phương Tây đã trở thành một phần trong di sản quốc gia của họ. Di sản này đã tạo nên một bản sắc kép, đặc biệt là trong tầng lớp tinh hoa du học ở châu Âu, những người khao khát tiếp thu nền hiện đại hóa và công nghệ từ đó.
Vòng lặp văn hóa với bản sắc kép
Người Việt bắt đầu định cư tại Pháp vào năm 1850. Paris là lựa chọn đầu tiên của sinh viên và các chuyên gia. Người lao động chân tay cũng được đưa đến để hỗ trợ chính quốc trong suốt hai cuộc thế chiến và thời kỳ tái thiết.
Nền tảng của bản sắc là ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn học và hình ảnh Đông Dương mang đến cho người Việt một dạng từ vựng mới cho nghệ thuật của họ. Thế hệ nghệ sỹ song-văn-hóa đầu tiên này đã đem tới một nhãn quan khác về quê hương họ cho công chúng Pháp, làm thay đổi quan niệm của phương Tây về Viễn Đông. Thuật ngữ “phản hồi” thường được sử dụng trong bối cảnh sinh học hoặc cơ học, là một quá trình điều tiết trong một hệ thống nhằm đưa nó trở về trạng thái ổn định mới. Quá trình phản hồi này yêu cầu các tác giả người Việt phải nghiêm ngặt hơn cả những đồng nghiệp người Pháp của họ.
“Nền tảng của bản sắc là ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn học và hình ảnh Đông Dương mang đến cho người Việt một dạng từ vựng mới cho nghệ thuật của họ. “
Đại diện nổi bật nhất của nền tân văn Pháp thuộc là Phạm Duy Khiêm, người Việt Nam đầu tiên theo học tại École normale supérieure (Trường Phổ thông Cao cấp), một trường văn chương danh tiếng ở Paris, từ năm 1931. Ông đã giành nhiều giải thưởng văn học bao gồm Prix Littéraire d’Indochine (Giải thưởng văn học Đông Dương) năm 1943 cho “Légendes des terres sereines”, một tập hợp các truyền thuyết Việt Nam được viết trực tiếp bằng tiếng Pháp. Theo lời Phạm Duy Khiêm: “Tôi đã tìm về những ký ức xa xôi của mình. Đọng lại trong miền ký ức ấy là những hình ảnh của một truyền thuyết đẹp đẽ tôi được nghe kể từ hai mươi, hai lăm năm trước”. Ông trở lại Việt Nam để thực hiện dự án của mình và gom nhặt những hình ảnh, câu chuyện thơ mộng bị lãng quên với mong muốn chia sẻ với công chúng Pháp. “Truyền thuyết đẹp” mà ông còn nhớ chính là câu chuyện cổ tích “Cái bóng và người vắng mặt”: “Tôi nhớ rằng đó là một cái bóng, cái bóng của người phụ nữ trên tường… Chồng xa nhà, và cô nói với đứa con rằng cái bóng là cha của nó… Người đàn ông trở về, hiểu nhầm và cho rằng vợ không chung thủy… Qua tháng năm, tôi đã tái khám phá ra những điều cốt tủy”.

Được định nghĩa bởi nhà phân tâm học Carl Jung, những nguyên mẫu là những mô hình tâm lý tiền định và những hành vi ảnh hưởng đến việc làm của chúng ta. Chúng là một phần của vô thức tập thể được chuyển giao qua nhiều thế hệ. Chính vì truyền thuyết ấy sống trong tâm trí Phạm Duy Khiêm qua ngần ấy thời gian, nó trở thành một phần danh tính của ông, một danh tính luôn bị giằng xé giữa Việt và Pháp. Bằng việc xuất bản tuyển tập truyền thuyết, ông đưa ra những gợi mở cho câu trả lời về thứ văn hóa song đôi ấy, đặc biệt là ở câu chuyện “Cái bóng và người vắng mặt” với nhân vật đứa trẻ.
Một người Việt nổi tiếng nữa là Khánh Ký, người tiên phong cho nhiếp ảnh Việt Nam và là phóng viên ảnh Việt đầu tiên được xuất bản trên tạp chí Pháp. Năm 1913, Raymond Poincarre được bầu làm Tổng thống Pháp. Trong số hàng trăm nhiếp ảnh gia ghi lại khoảnh khắc chiến thắng này, bức ảnh của Khánh Ký đã được L’Illustration chọn đăng lên trang bìa. Trước khi trở về Pháp, nơi ông sống cho đến cuối đời, phóng sự cuối cùng của ông được xuất bản trên L’Illustration, về chuyến thăm đầu tiên của hHoàng đế Bảo Đại cùng nhóm quân sự của Pasquier và quan chức Pháp tại Bắc kỳ năm 1933. Dù tiếng nói của ông được truyền tải bằng ngôn ngữ hình ảnh và sử dụng máy ghi âm cơ học, Khánh Ký đã dùng niềm tin và tài năng của mình để đưa dấu ấn Việt Nam lên đỉnh cao của một môn nghệ thuật mới đầy tính cạnh tranh. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến viếng thăm mộ Khánh Ký trong thời gian tham dự Hội nghị Fontainebleau.


Hai nhân vật lịch sử này đóng vai trò như một phản hồi cho nền văn hóa Pháp bằng cách duy trì góc nhìn Việt của họ, chia sẻ sự nhạy cảm và hiểu biết về nguồn gốc của mình, xa rời Đông phương luận đẹp đẽ như tranh họa hoặc niềm hoài niệm bất di bất dịch. Hơn cả một phản hồi, thế hệ tác giả song-văn-hóa đầu tiên và sau này, đã tạo ra tính nguyên bản và một vòng lặp giữa Việt Nam và Pháp – tích hợp Việt Nam vào lịch sử Pháp và ngược lại.
Viễn Đông Siêu hình
Viễn Đông đã tự biến đổi, trở thành một Viễn Đông Siêu hình, với quy mô ngày càng phức tạp với các mối quan hệ nối liền chặt chẽ. Về phía Việt Nam, có hơn 5 triệu người Việt ở hải ngoại với những đặc điểm địa lý và lịch sử đa dạng, mang theo những câu chuyện của riêng họ. Trong triển lãm của nhóm XEM tại Singapore, Tiến sỹ Tan viết: “Tiền đề cơ bản kết nối vô số tác phẩm của Quang Lâm trong triển lãm này là tính đồng thời”. Để nắm bắt được tính đồng thời trong Viễn Đông Siêu hình, chiếc máy ảnh của ta không thể chỉ là chiếc hộp Brownie đơn giản do Kodak giới thiệu vào năm 1900 mà ông Barbet đã sử dụng cho tập ảnh du lịch của mình.


Loạt tác phẩm “Astrolab Hanoi”, thuộc dự án nghệ thuật “Viễn Đông Siêu hình”.

Khái niệm này đòi hỏi ta phải nhìn qua một loại lăng kính có thể tiết lộ các cấu trúc và các xung lực trong nó. Nghiên cứu và thu thập các lưu trữ để có thông tin trực tiếp, đọc và vẽ bản đồ để xem với góc nhìn toàn cầu, chắc chắn thuộc về cấu trúc chính của chiếc máy ảnh mới mẻ và đi sâu vào bản chất này. Điều cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là nó phải được xây dựng từ hoạt động tập thể, bởi thông tin phi chính thức chỉ có thể được hiểu thông qua các cuộc đối thoại và thảo luận, giống như những cuộc đối thoại và thảo luận mà tôi tham gia cùng nhóm XEM, bao gồm những người Việt Nam sống ở Việt Nam, Pháp và Mỹ, một thực thể đa văn hóa làm việc cùng nhau trong 10 năm.
Đối với hầu hết chúng ta, du lịch tiếp tục chỉ như những chuyến đi vô trùng, nhạy cảm với thời gian. Để có lại cảm giác được co kéo thời gian và khoảng cách “hệt như mộng ước thanh xuân”, việc thiết kế một thiết bị xa xỉ mới cho chuyến du hành bất tận và đa chiều là hoàn toàn xứng đáng.
Words and photos: Quang Lâm
Về tác giả
Quang Lâm là một nghệ sỹ nhiếp ảnh người Pháp gốc Việt và là thành viên của nhóm nghệ thuật thị giác XEM tại Sài Gòn, cùng với Nguyễn Thanh Trúc, Nguyễn Trần Ưu Đàm, Hoàng Dương Cầm và Phan Quang. Năm 2023, XEM lần đầu tiên trưng bày các tác phẩm của họ tại Singapore, tổ chức tại Học viện Mỹ thuật Nanyang, trước khi mang về Thành phố Hồ Chí Minh để triển lãm tại Vin Gallery.


