Đi tìm trung đạo

Một chiều ở Huế, tôi ghé thăm Lan Viên Cố Tích nằm trên dốc đồi Hà Khê, cạnh dòng sông Hương. Thăm Bảo tàng Gốm cổ sông Hương trong khuôn viên là một lẽ, nhưng quan trọng hơn, tôi muốn gặp lại người đã sáng lập bảo tàng – GS TS Thái Kim Lan, hầu nghe bà giải thích tường tận về một viễn cảnh bà gọi là “Huế ở giữa”. Đó là bản sắc mà Huế đã phát huy, và sớm thôi sẽ lại khởi hành một cuộc mới.

GS TS Thái Kim Lan sinh ra và lớn lên ở Kim Long, Huế. Bà theo học ở những ngôi trường trứ danh như Đồng Khánh, Quốc Học, Đại học Văn khoa Huế. Năm 1965, bà sang Đức với học bổng của Cơ quan trao đổi Hàn lâm Đức (DAAD) theo chương trình đào tạo Giáo sư Đức ngữ của Viện Goethe Sài Gòn. Về sau, bà trở thành Giáo sư Triết học tại Đại học Ludwig Maximilian Munich, Đức. Dẫu vậy, người Huế biết đến bà nhiều hơn với tư cách là một nhà hoạt động văn hóa. Bà sáng lập Bảo tàng Gốm cổ sông Hương năm 2022 với hơn 5.000 hiện vật gốm trục vớt từ lòng sông, trong đó có những cổ vật quý có niên đại từ thời tiền Sa Huỳnh; đồng thời, bà đã miệt mài thực hiện nhiều hoạt động liên văn hóa cho đến hiện nay.

GS TS Thái Kim Lan trong không gian cổ kính của Lan Viên Cố Tích.
Lan Viên Cố Tích nằm trên đất của Thái tộc Từ đường, nơi gia tộc của GS TS Thái Kim Lan đã sinh sống qua nhiều thế hệ.
Một góc Lan Viên Cố Tích trong lễ dựng nêu đón Tết Giáp Thìn năm 2024.
Lễ dựng nêu đón Tết Giáp Thìn tại Lan Viên Cố Tích năm 2024.
Lễ dựng nêu đón Tết Giáp Thìn tại Lan Viên Cố Tích năm 2024.

Trong số này, Art Republik đặt trọng tâm vào chủ đề “Tầm nhìn từ trung điểm”, lấy cảm hứng từ một nhận định của cô Thái Kim Lan về thành phố Huế – một gạch nối tiềm năng trên bản đồ di sản của khu vực. Cô có thể chia sẻ thêm về ý tưởng này không?

Luận về điều này, ta phải truy xuất từ góc độ địa lý, lịch sử hình thành lẫn lịch sử nhân văn, bởi mảnh đất này nằm ở ngã tư văn hoá, có sự giao thoa giữa miền Bắc và miền Nam, giữa phương Đông và phương Tây, và vì thế vua Gia Long khi lên ngôi đã định vị kinh thành Huế bao gồm không những bốn phương mà cả tám hướng cho sự thống nhất chính trị và văn hóa dân tộc. Trong viễn tượng ấy, khi gọi Huế là một dấu gạch nối, tôi chủ đích bàn đến tính “trung tâm” mà thành phố này đã kế thừa qua nhiều triều đại, trong quá trình định vị chính mình. “Trung tâm” không có nghĩa như chủ thuyết duy trung tâm (tập quyền trung ương) ở chế độ phong kiến (triều Nguyễn thuộc hệ thống phong kiến) hay quyền lực tập trung kiểu đế chế hay đảng chế. Trái lại, trung tâm được hiểu là trạng thái “ở giữa”, tạo thế cân bằng trong đa cực. Nó gắn liền với khái niệm trung đạo trong Phật giáo, thực chứng “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Tâm không chấp vào một cực nào mới là tâm chân thật. Trung tâm không duy cực mà siêu việt đối đãi, tạo được quân bình.

Vậy khái niệm “Huế ở giữa” nên được hiểu như thế nào cho xác đáng? Thứ nhất, “ở giữa” là hình thái gắn liền với vị trí địa lý, sách lược phát triển. Cũng giống như năm xưa, các vị quân chủ, chúa và vua Nguyễn đã tận dụng vị thế “ở giữa” như một sách lược văn hóa toàn diện, bao gồm các lĩnh vực triết lý, mỹ học, kinh tế và phong cách sống, qua đó xây dựng một lãnh thổ hòa bình “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Kế đến, “ở giữa” chính là sự giao thoa đa văn hóa: Huế sẵn sàng đối diện hay đi cùng với các nền văn hóa khác nhau mà vẫn giữ được bản chất văn hóa bản địa. Điều này vốn đã có tiền lệ từ thế kỷ 14, khi đám cưới của công chúa Huyền Trân và Chế Mân mở ra khả thể giao lưu văn hóa đầu tiên Việt Chàm (tiêu cực đối với Chàm, tích cực đối với Việt). Bản lai văn hóa Việt vì thế luôn hình thành trong sự đối thoại với các nền văn hóa khác, tức “ở giữa” trong đa cực.

Phải nói thêm, tôi lạm dùng chữ “ở giữa” từ một bài khảo cứu của một tác giả Tây phương khi lý giải về lý thuyết duyên khởi của ngài Long Thọ. Trong lý thuyết duyên khởi này, ngài Long Thọ lại luận giải kỹ hơn về thuyết trung đạo của Phật Cồ Đàm, qua đó cho rằng chân lý rốt ráo nằm giữa các cực đối lập. Trung đạo đạt đến tính mở và sự bao dung, xem tất cả các khả thể nằm trong điều kiện tính, nhờ đó mà khải nghiệm tự do và chứng ngộ sự thật. Tôi tin vào lẽ ấy, cũng nghiệm thấy rằng “Huế ở giữa” với tôi là “Huế” nhất. Huế ngày nay nhiều lúc bẵng quên trung đạo, tôi lấy làm tiếc thay.

“Trung đạo đạt đến tính mở và sự bao dung, xem tất cả các khả thể nằm trong điều kiện tính, nhờ đó mà khải nghiệm tự do và chứng ngộ sự thật. “ 

Như vậy, Huế cần định vị rõ nét một căn tính “ở giữa” mà bản thân thành phố từng biểu đạt trong quá khứ. Nhưng quá trình này không hề dễ dàng, nhất là khi bản sắc không mang tính cố định mà được xây đắp theo dòng chảy thời gian, do các tương tác văn hóa – xã hội trên vùng đất ấy mà thành.

Tương tác tương liên theo dòng chảy thời gian, đó là “ở giữa”! Việt Nam ta tuy đã vượt thắng thuộc địa lẫn áp lực ngoại bang, nhưng hành trình xây dựng tự chủ sẽ không xóa hết mọi di căn. Vậy cái khó là phải vượt qua nỗi mặc cảm ám thị của chủ nghĩa trọng Âu vốn đang chiếm thế thượng phong. Thay vì nghĩ rằng cái gì ở phương Tây cũng vượt trội hơn ở phương Đông, người phương Đông phải có sự tự hào bản sắc, phải thấu hiểu rằng mọi nền văn hóa đều bình đẳng. Với tinh thần tôn trọng những đặc tính văn hóa đã sẵn, đồng thời ứng dụng triết lý “ở giữa” trong việc truy vấn bản sắc, kiến thiết hiện hữu sinh tồn, căn tính mới sẽ được dịp nảy sinh.

Lấy một ví dụ về căn tính Việt: kiên cường, trung hậu là những tính từ mô tả đức hạnh của người Việt từ ngàn xưa, vậy đức hạnh ấy giúp định vị người Huế và người Việt Nam của hôm nay như thế nào, hay chúng chỉ được lặp lại như con vẹt?

Hay chăng, thay vì áp đặt vẻ lãng mạn của phong cách Âu châu vào trong đời sống Việt, từ kiến trúc, thời trang, cho đến mỹ thuật, phong cách sống, hãy thử tìm lại cội nguồn lãng mạn của đất nước Việt Nam xem sao. Để làm được điều này, những người hoạch định cần có sự tiếp xúc, khảo sát các di sản trên thế giới; quan trọng nhất là phải đạt đến “cái rỗng” – dám rũ bỏ tự ngã tự ti của một thành phố, một đất nước nhỏ bé, chưa được công nghệ khai phóng. Đừng áp đặt Huế như bất kỳ phiên bản nào khác trên thế giới, với nhà chọc trời hay những cây cầu thật to… Thay vào đó, hãy tự tin tôn cao tâm thức Huế với vẻ đẹp sông núi không nơi nào có được.

Sự tiếp thu của cô giống như một chiếc phễu, tinh lọc những gì tối ưu của Tây phương rồi trở về vận dụng một cách linh hoạt vào bối cảnh văn hóa ở quê nhà. Cô có thể nói thêm về sức ảnh hưởng của quá trình lưu học và công tác tại châu Âu lên cách cô làm văn hóa Huế.

Có lẽ đó là kết quả hầu như tự nhiên của một quá trình dấn thân học hỏi ở nước Đức, đồng thời vẫn cố thủ bồi đắp bản sắc Việt đã sẵn. Phải nói rằng dưới sức ảnh hưởng của tư duy, nếp sống, giao thiệp con người, cũng như thấm đượm khung cảnh đô thị, thiên nhiên của thành phố tôi đã sống, tôi vẫn gìn giữ được diện mục bản lai của mình nhờ nền tảng giáo dục truyền thống của gia đình, sự tự hào về gia phong lẫn một nền giáo dục cơ bản nhân văn mà bản thân đã tiếp nhận thời còn ở Huế. Nói cách khác, tôi nuôi dưỡng trong mình sự tự tin. Càng tiếp nhận tinh thần tự do phê phán của Tây phương – cái nôi của phong trào Khai sáng, tôi càng tôn trọng sự bình đẳng và tính liên đới với thế giới chung quanh, qua đó thêm tha thiết khám phá tư tưởng Đông phương, nhất là căn tính hòa bình nằm ở trí tuệ khoa học và sự từ bi bao dung của Phật giáo. Việc tiến ra thế giới cho phép tôi nhìn nhận vạn sự bằng con mắt Đông-Tây đối ngẫu, so sánh các mô hình khác nhau trên bình diện văn hóa, xã hội, kinh tế, v.v., hầu tìm ra những giải đáp thỏa đáng cho công trình của mình ngày trở lại quê hương.

Lấy ví dụ về việc xây dựng và phát triển thành phố, tôi vốn rất ấn tượng với cách người Đức xây dựng thành phố văn minh và bền vững. Ở nơi tôi sống, những tòa nhà ở trung tâm được chính quyền kiểm soát chặt chẽ, cao nhất chỉ có bốn tầng, kết hợp với những vùng xanh chia đều trong thành phố để bảo tồn tổng thể kiến trúc hài hòa giữa thiên nhiên và đô thị. Cách tiếp cận ấy thấm nhuần trong tôi, cho phép tôi suy nghĩ tường tận hơn khi gặp phải một cây bồ đề mọc lâu năm chính trong không gian cũ nát mà chúng tôi toan cải tạo thành địa chỉ liên văn hóa ở phố cổ Bạch Đằng (Huế), để rồi quyết định gìn giữ cây bồ đề ngay giữa gian nhà lớn. Theo tôi, sự hiện diện của cây bồ đề bất chấp những tranh cãi bủa vây không chỉ mang chứa tiếng nói từ bi của đạo Phật về sự sống bình đẳng của muôn loài, mà còn là tiếng nói Tây phương, về môi trường môi sinh, về mỹ học kiến trúc, về một phương diện thẩm mỹ Đông-Tây đã bị sự thực dụng thô thiển cưỡng hiếp hơn nửa thế kỷ. Âm thầm diễn tiến trong tôi là cuộc đối thoại với những quan niệm đa chiều, giúp tôi ứng xử thấu đáo hơn với văn hóa Huế lẫn văn hóa dân tộc. Cây bồ đề hiện nay đã vững chãi xanh tươi, cũng là nhờ gốc rễ của tư duy trung đạo ấy.

Khi tôi hồi tưởng những chuyện này, tin tức đang xôn xao về việc di sản kiến trúc ngôi nhà Đốc phủ sứ Võ Hà Thanh ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai sẽ bị đập bỏ để xây dựng đường sá. Tôi chợt nghĩ và cũng đã lên tiếng rồi đấy thôi, bởi cái đương đại nhất thời nên nhường bước trước những di sản độc đáo của vùng miền, xứ sở.

Ở cô Thái Kim Lan, tôi cảm nhận được một tinh thần phản kháng ngầm để bảo vệ những giá trị văn hóa xung quanh mình. Ngoài mối duyên sâu đậm với văn hóa, dòng chảy quyết liệt bên trong cô là do đâu mà có?

Tôi hình dung mình như một người khâu vá, mặc dù tôi vụng về việc này. Mỗi lần trở về, tôi dễ dàng nhận ra những thay đổi sau một thời kỳ đã qua, những mất mát mà con người nơi đây đang nếm trải, thế nên bản thân cũng quyết liệt hơn, sẵn lòng phản kháng với những chuyện trong tầm khả dĩ.

Còn nhớ sau năm 1975, khi tôi về Huế lần đầu tiên, thành phố này đã vắng bóng chiếc áo dài thường nhật thuở trước. Một cảm giác xa lạ xâm lấn mình, tôi đau đớn và tiếc nuối những hình ảnh đẹp mà tôi từng chiêm ngưỡng, thế là tôi gom góp lại những chiếc áo dài triều Nguyễn từ mẹ và bà, sau đó mang sang Đức cất giữ, làm thành một bộ sưu tập áo dài Huế xưa. Bộ sưu tập gồm 12 chiếc, trải dài từ y áo của Từ Cung hoàng thái hậu, vua Khải Định cho đến các bà mệnh phụ, phu nhân. Duyên may, tôi có dịp gặp tiến sỹ Meyer-Zollitsch, Viện trưởng Viện Goethe tại Hà Nội, cùng chuyện trò về thời trang áo dài Việt Nam. Những chiếc áo lâu năm nơi góc nhà ở Đức bỗng hiện ra rực rỡ và lay động tâm can bà Mayer. Thế là tháng Giêng năm 2015, chúng tôi tổ chức triển lãm “Màu vàng lồng lộng chảy tràn lá xanh” để trưng bày những chiếc áo dài xưa, cũng chính là hoạt động mở đầu nhân dịp kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Đức.

Một ví dụ khác là vào năm 2016, tôi thua kiện về việc đất hương hỏa của Thái tộc Từ đường, là nơi gia tộc tôi đã sinh sống hàng trăm năm nay. Lúc đó, tôi vừa giận cũng vừa buồn não nề, đã định lòng không trở lại Huế nữa. Nhưng vừa nghĩ đến đó, tôi đã ân hận ngay. Làm sao tôi nỡ để mảnh vườn và nhà thờ tổ tiên tàn tạ, rồi mang thân chạy trốn khỏi những nỗi niềm trên mảnh đất ấy? Mùa xuân năm 2019, tôi trở về Việt Nam, quyết ăn một cái Tết Kỷ Hợi truyền thống, với ý tưởng đằng sau là để rà soát lại mối giao cảm của mình với văn hóa Việt Nam. Thế rồi, tôi đi đến quyết định sau cuối: biến Thái tộc Từ đường thành một địa chỉ văn hóa trên mảnh đất cố đô. Cũng trong thời kỳ giãn cách do đại dịch COVID-19, trong những lúc ra vào gian nhà, nhìn hàng nghìn món đồ gốm mà anh tôi là cố họa sỹ Thái Nguyên Bá đã cùng tôi sưu tập trong hàng chục năm liền, tôi dốc lòng sáng lập Bảo tàng Gốm cổ sông Hương như bạn thấy ngày nay.

Du khách quốc tế ghé thăm Bảo tàng Gốm cổ sông Hương và Lan Viên Cố Tích.
Bảo tàng Gốm cổ sông Hương được chia thành ba không gian chính, trải dài từ thời tiền Sa Huỳnh cho đến triều Nguyễn.

Trong hàng thập kỷ, cô Thái Kim Lan đã thực hiện nhiều sáng kiến để bảo tồn nghệ thuật, nào là một thời đưa các nghệ sỹ của Nhà hát Tuồng Đào Tấn (Bình Định) sang nước Đức biểu diễn, là buổi nói chuyện về kiến trúc, thi ca lẫn bảo tàng gốm cổ trong khuôn viên gia tộc. Thời gian tới, đâu là ý tưởng mà cô tập trung dành nguồn lực phát triển?

Mỗi ý tưởng, loại hình nghệ thuật đều mang đến cho tôi một nguồn cảm hứng, một “vị” nghệ thuật riêng để hồi đáp với những “cơn khát” của tôi về cái đẹp. Bởi mọi thứ đều làm mình rung động, tôi không khai trừ loại hình nào. Hai ý tưởng tôi tâm huyết nhất hiện thời là Bảo tàng Gốm cổ sông Hương và Điểm gặp Liên văn hóa.

Độ ba, bốn năm trước, cuộc xây dựng Bảo tàng Gốm cổ sông Hương là một quá trình thương thảo Đông-Tây dai dẳng và thầm lặng trong tôi. Thời điểm ấy, chúng tôi xác định mục đích của bảo tàng là để bảo tồn “gia trung hữu bảo” cho Huế, nhưng thế thì cần đặt ra câu hỏi: “Cái gì Huế nhất để mình bảo tồn?”. Để trả lời câu hỏi ấy, bên cạnh việc sục sạo căn tính Huế, tôi còn thử nhìn bằng con mắt Tây phương, tức dùng điểm nhìn từ phương xa để truy xét, đúc kết vẻ đẹp cốt lõi của Huế. Hiện nay, Bảo tàng Gốm cổ sông Hương được công nhận là một không gian “trung thực” chất Huế, không lai căng, cũng là điều chúng tôi lấy làm tự hào.

Tiếp nối công trình này, tôi muốn dành thời gian phát triển Điểm gặp Liên văn hóa. Đây là nơi tổ chức các buổi nói chuyện đa chủ đề, các buổi trình diễn, kịch nghệ với những nghệ sỹ đến từ khắp thế giới, kể cả Pháp, Đức, Mỹ để bạn bè tứ phương cùng hội ngộ, mổ xẻ vấn đề, trao đổi kiến thức. Cuối năm 2024 này, chuỗi sự kiện Liên hoan phim Đức (Kinofest) thường niên tại Việt Nam cũng sẽ diễn ra tại Điểm gặp Liên văn hóa, ở số 94-96-98 đường Bạch Đằng, thành phố Huế. Mong sao qua những hoạt động như thế, mọi thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ sẽ có không gian gây cảm hứng thẩm mỹ, có cơ hội tìm hiểu và trao đổi về văn hóa để làm giàu vốn liếng văn hóa và nhân sinh quan của mình. Nhất là, Huế cũng cần đổi mới phong cách văn hóa trong sáng tạo thẩm mỹ, bởi hành vi đổi mới sẽ tạo tiền đề để di sản thêm giàu có, trù phú.

Tôi từng viết rằng triết học liên văn hóa là một nhánh triết học lấy liên văn hóa làm đối tượng, và liên văn hóa lại lấy văn hóa làm đối tượng. Triết học liên văn hóa mà không có văn hóa thì cũng thành rỗng tuếch, nên tôi thực hành liên văn hóa phần là để lưu dấu di sản, phần là để bồi vào cái lý thuyết mà tôi đã miệt mài nghiên cứu và giảng dạy ngần ấy năm qua.

Một góc Bảo tàng Gốm cổ sông Hương trong dịp Tết Trung thu năm 2024.
Một góc Bảo tàng Gốm cổ sông Hương trong dịp Tết Trung thu năm 2024.
Triển lãm ảnh “Cội mai vàng Tịnh Tâm” của cố cư sỹ, nhiếp ảnh gia Lê Văn Lợi, diễn ra tại Điểm gặp Liên văn hóa, Huế.
Sự kiện Họp khoáng đạt thành lập Hội Nghiên cứu Văn hóa Việt – Nhật Phan Bội Châu, diễn ra tại Điểm gặp Liên văn hóa, Huế, năm 2023.
Góc thờ tự bên trong Lan Viên Cố Tích, Tết Giáp Thìn 2024.

Cảm ơn GS TS Thái Kim Lan vì một cuộc chuyện trò thú vị. Chúc cô luôn khỏe mạnh để có thể tiếp tục thực hiện những sứ mệnh văn hóa của mình.

Bài: Thủy Tiên

Art Nation

Art Nation là ấn phẩm nghệ thuật song ngữ duy nhất và hàng đầu tại Việt Nam. Với đội ngũ biên tập chuyên nghiệp, chúng tôi mang đến những ấn phẩm chất lượng cao, hướng đến sứ mệnh lan tỏa giáo dục nghệ thuật cho công chúng.

Bài viết liên quan

Karaoke với người xa quê

Quỳnh Đồng được biết đến với các thực hành chuyển hóa cực thực thành siêu thực thông qua các biểu hiện cực sến nhằm làm mới lại các khái niệm về thẩm mỹ sáo rỗng.

Ấn phẩm