
Công trình nghiên cứu của chị mang tính bước ngoặt vì đã ấn định tầm quan trọng của vua Hàm Nghi với vai trò họa sỹ hiện đại đầu tiên của Việt Nam, bên cạnh hình ảnh vị anh hùng dân tộc. Công chúng tại Pháp đã nhìn nhận Hàm Nghi thế nào trước và sau dự án sách cùng các triển lãm chị đồng giám tuyển?
Trước khi tôi quyết định dành toàn bộ luận án tiến sỹ của mình cho Hàm Nghi, công chúng Pháp không biết gì về ông. Trong trường, học sinh chỉ được dạy về những cột mốc chính trong lịch sử thuộc địa Đông Dương. Rất ít người Pháp biết được rằng chính phủ của họ đã lưu đày vua chúa của các nước khác để biến chúng thành thuộc địa! Chỉ có những người Pháp gốc Việt mới biết Hàm Nghi là một người hùng dân tộc! Những sử gia Pháp chuyên về Việt Nam cũng không hay rằng Hàm Nghi đã trở thành một họa sỹ trong thời gian lưu đày. Luận án tiến sỹ của tôi đã soi rọi một góc khuất của lịch sử Việt Nam. Cuốn sách dựa trên luận án đã mở cánh cửa cho công chúng khám phá câu chuyện của vị hoàng đế bị lưu đày ấy. Phản hồi từ công chúng Pháp khiến tôi cảm động. Thường thì người Pháp sẽ cảm thấy xấu hổ vì chính phủ thời bấy giờ, đồng thời thương cảm và ngưỡng mộ vị vua bị lưu đày. Người ta cũng có hứng thú tìm hiểu cuộc đời ngài, bởi ngài có danh hiệu “Hoàng thân” và là bằng hữu của nhiều nghệ sỹ lớn đương thời. Chuỗi triển lãm tôi giám tuyển đã giúp lan tỏa nhận thức về tác phẩm của ngài. Công chúng Pháp thường lấy làm lạ vì tranh của ngài được sáng tác vào thời Đông Dương nhưng lại không chứa nhiều yếu tố Việt trong đó. Nhưng ai nấy đều xúc động bởi chất lượng và độ nhạy cảm trong hội họa của ngài.


Trong giới nghệ thuật, ngôn ngữ áp đảo vẫn đến từ phương Tây. Chị đã vượt qua rào cản vị-Âu ấy như thế nào để đảm bảo công trình của mình cũng bao hàm góc nhìn bản địa và gần gũi với công chúng ở Việt Nam?
Để phục vụ cho luận án, tôi đã học tiếng Việt ở INALCO và Đại học Diderot Paris. Điều này giúp tôi có thể làm nghiên cứu suốt 2 năm tại Việt Nam, đi thăm những địa điểm Hàm Nghi đã biết tới, tìm kiếm các kho lưu trữ và thấu hiểu ngữ cảnh văn hóa khi ngài còn thơ ấu.
Từ góc nhìn lịch sử mỹ thuật, công trình tiến sỹ của tôi bao gồm cả việc nghiên cứu những luồng ảnh hưởng tới hội họa của ngài. Trước tiên tôi phải tìm hiểu về khái niệm nghệ thuật tại Việt Nam trong giai đoạn lịch sử ấy; rồi sau đó mới phân tích hội họa của ông vừa từ góc nhìn châu Âu dưới sự ảnh hưởng của những họa sỹ Pháp, và từ châu Á với lịch sử mỹ thuật Việt và Trung Quốc, vốn tồn tại song song khi ngài còn sống. Tôi phân tích các tác phẩm của ngài dọc theo mạch lịch sử mỹ thuật Việt Nam để đảm bảo rằng mình không bỏ sót điều gì, trước khi phân tích những đặc tính Pháp trong tranh ngài. Khía cạnh này vô cùng thú vị, bởi “nghệ thuật” và “nghệ sỹ” vào thời đó vốn mang hàm ý rất khác nhau khi nhìn từ hai phía.
“Chỉ có những người Pháp gốc Việt mới biết Hàm Nghi là một người hùng dân tộc! Những sử gia Pháp chuyên về Việt Nam cũng không hay rằng Hàm Nghi đã trở thành một họa sỹ trong thời gian lưu đày.”
Nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp Hàm Nghi là một trường hợp thú vị khi ta luận về tính vị-Âu trong lịch sử mỹ thuật. Ngài là người Việt, nhưng từ 18 tuổi đã sống ở Algerie, một thuộc địa khác của Pháp. Ngài được đào tạo mỹ thuật bởi một họa sỹ Pháp theo chủ nghĩa Đông phương, và xây dựng sự nghiệp hội họa trong khu vườn mỹ thuật Pháp. Vậy nên công cuộc nghiên cứu nhân vật với số phận lạ thường này đòi hỏi việc nắm vững cả văn hóa Việt và Pháp.
Chị thích nhắc đến vua với tên gọi “Tử Xuân”, một danh xưng đầy chất thơ.
“Tử Xuân” là tên được đặt cho Hàm Nghi khi ngài mới sinh. Suốt cuộc đời, ngài sử dụng tên này làm danh xưng, và cả nghệ danh để ký lên tranh vẽ.

Bên cạnh hội họa, Hàm Nghi còn thực hành những bộ môn nghệ thuật nào khác?
Hàm Nghi thực hành hội họa và điêu khắc, và cũng như những học giả cùng thời, ngài không phân biệt giữa mỹ thuật và mỹ nghệ. Ngài cũng mày mò làm đồ gỗ. Một số đồ gỗ ngài tự thiết kế và sản xuất vẫn còn được giữ tới nay. Dựa vào tư liệu cá nhân, ta cũng được biết rằng ngài còn thực hành đan giỏ, dù không có vật dụng nào được lưu giữ cả.
“Tôi phân tích các tác phẩm của ngài dọc theo mạch lịch sử mỹ thuật Việt Nam để đảm bảo rằng mình không bỏ sót điều gì, trước khi phân tích những đặc tính Pháp trong tranh ngài.”
Chị cũng là hậu duệ đời thứ 5 của ngài, nên dự án này vừa là một dự án chuyên môn, vừa là một sứ mệnh cá nhân. Có những kỷ niệm nào khiến chị cảm động nhất xuyên suốt hành trình nghiên cứu này?
Kỷ niệm đáng nhớ đầu tiên là ngày bà tôi đưa cho tôi xem bài thơ “Con trai của mùa xuân” của Judith Gautier. Bài thơ thật hay, khiến tôi kinh ngạc. Giây phút đó, tôi nhận ra rằng Hàm Nghi đã được ái mộ bởi những tên tuổi lớn đương thời. Lúc đó tôi còn chưa biết được tầm quan trọng của ngài với người dân Việt Nam.
Kỷ niệm đáng nhớ thứ hai là lúc tôi tìm ra kho lưu trữ cá nhân của Hàm Nghi. Sau nhiều tháng kiếm tìm mòn mỏi về những vết tích của cuộc đời ngài, tôi đột nhiên khám phá ra 2.500 lá thư, bản nháp, và tư liệu cá nhân của ngài. Thật như bắt được kho báu! Việc đắm mình nghiên cứu và phân tích chúng khiến tôi cảm thấy được gần ngài hơn, và tự hào về ngài hơn.
Kỷ niệm đáng nhớ thứ ba là chuyến đi Việt Nam đầu tiên của tôi năm 2011. Tôi đã vô cùng xúc động khi được bước chân trên đất tổ, được thăm lăng của cha ngài, nơi ngài từng ao ước được chôn cạnh. Tôi cũng hết sức cảm kích khi thấy Hàm Nghi được coi như một người hùng dân tộc, một vị hoàng đế yêu nước. Lòng ngưỡng mộ và tôn kính người Việt dành cho ngài khiến tôi cảm động sâu sắc.


Huế vốn luôn là một trung tâm lịch sử, văn hóa và chính trị. Ấn tượng của chị về nơi này ra sao qua nghiên cứu, và qua trải nghiệm thực thụ?
Thành phố Huế có chỗ đứng đặc biệt trong tôi bởi đó là nơi kỵ tổ tôi từng sống. Đó cũng là nơi ngài trải qua hầu hết những cột mốc quan trọng khi ngài còn ở Việt Nam. Mỗi khi tản bộ quanh Đại Nội, tôi lại nghĩ tới việc ngài cũng đã từng đi lại và thuộc rõ những công trình ấy. Ở Việt Nam, Huế là nơi làm cho tôi cảm thấy gần với kỵ tổ mình nhất.
Chị có thể chọn một vài tác phẩm của Hàm Nghi mà chị yêu thích và diễn giải thêm cho độc giả?
Tôi yêu mến tất cả các tác phẩm của ngài. Mỗi tác phẩm kể một phần câu chuyện cuộc đời và phản ánh cảm xúc của ngài về một cảnh quan cụ thể. Tôi yêu những bức tranh ngài vẽ trực họa hàng ngày để thực hành và nghiên cứu biến chuyển của ánh sáng trên cùng một khung cảnh, thường ít được biết tới hơn, và cả những bức được vẽ kỹ sau những nghiền ngẫm phong cách rõ ràng.
Bức tự họa năm 1896 của Hàm Nghi khiến tôi đặc biệt cảm động. Đó là bức tự họa duy nhất được biết tới của ngài, vẽ từ một tấm ảnh. Trong tác phẩm này, ta cảm nhận được sự ngần ngại của một sinh viên mỹ thuật, và cả độ mẫn cảm và lòng kiên quyết của một họa sỹ sắp sẵn sàng sải cánh.
Một trong những bức tranh tôi rất thích là bức sơn dầu trên toan với tựa “Cây ô-liu già”, bởi nó được Hàm Nghi vẽ năm 1905, ít lâu sau đám cưới của ngài, khi ngài quyết định đưa bảng màu của họa sỹ Pháp Paul Gauguin vào thực hành.
Tôi cũng rất yêu bức tượng “Người đàn bà và quả bầu” vì thủ pháp nhào nặn vừa dứt khoát lại vừa tinh tế, học theo lối sáng tác của người thầy, điêu khắc gia vĩ đại Auguste Rodin.


Cuốn sách của chị giờ đã được xuất bản bằng tiếng Việt. Nhiều độc giả của tạp chí mong chờ được cầm sách trên tay, và tôi xin chúc kế hoạch ra mắt sách của chị diễn ra suôn sẻ và thành công!
Xin cảm ơn! Tôi rất háo hức được chia sẻ câu chuyện về đời sống lưu đày của Hàm Nghi với công chúng Việt Nam!
Words & Translation: Ace Lê


