
TS Lenzi, trong những thập kỷ qua, chị là tiếng nói nhất quán và mạnh mẽ nhất trong việc định vị vai trò của cố nghệ sỹ Vũ Dân Tân trong nền nghệ thuật đương đại Việt Nam, qua nhiều ấn phẩm, triển lãm và hội thảo phong phú. Lần này, Bảo tàng Vũ Dân Tân là dự án tham vọng và có sức ảnh hưởng nhất của chị về cố nghệ sỹ từ trước đến nay. Xin chị chia sẻ với chúng tôi về tầm nhìn và chiến lược giám tuyển của mình?
Iola Lenzi (IL): Dự án này là thành quả hợp tác giữa Natasha, vợ cố nghệ sỹ Vũ Dân Tân, và Nhusha Vũ, con gái ông. Kế hoạch này được ấp ủ từ năm 2012 khi tôi thực hiện nghiên cứu cho triển lãm “Vệ nữ ở Việt Nam” do Viện Goethe Hà Nội tổ chức, là dịp để tôi mở rộng nghiên cứu hồi năm 2001 của mình về tác phẩm của Vũ Dân Tân và những biểu hiện nghệ thuật mang tính phê phán tình dục và giới tính trong bối cảnh xã hội Việt Nam. Tôi bắt đầu đào sâu vào kho tàng đồ sộ của Vũ Dân Tân và nhận ra phần lớn trong số này vẫn chưa được biết đến trong giới nghiên cứu lịch sử nghệ thuật. Các học giả hiện vẫn còn tranh cãi về các phương pháp luận để nghiên cứu lịch sử nghệ thuật Việt Nam, cũng như những định nghĩa về nghệ thuật đương đại. Nhưng trước khi tranh cãi về khuôn khổ, điều quan trọng tiên quyết là phải xem xét kỹ lưỡng tác phẩm nghệ thuật. Chính các nguồn tác phẩm gốc và sự am hiểu của chúng ta tạo nên cơ sở vững chắc, rồi mới đến khuôn khổ và lý thuyết. Bảo tàng Vũ Dân Tân là nơi lưu trữ một lượng lớn tác phẩm của Vũ Dân Tân; các bài viết và di cảo của ông; tài liệu liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp; và quan trọng hơn là các bài báo và ấn phẩm về nghệ thuật Việt Nam trải dài các thập niên 80 đến đầu 2000. Vì thế, bảo tàng sẽ cung cấp cho các sử gia nghệ thuật những tài liệu chính và phụ phục vụ cho công việc nghiên cứu.

“Tôi đồng ý với Natasha là ‘Salon Natasha đã qua rồi’ và chúng tôi làm một công trình mới, vượt khác ‘30 Hàng Bông’ về mặt vật lý, nhưng việc ứng xử với các ký ức cuối cùng thì vẫn không tránh được và truyền dẫn nó tự nhiên qua kiến trúc.” – Hoàng Lê
Chiến lược giám tuyển xuất hiện tự thân từ những tài liệu hiện có: nghệ thuật của Vũ Dân Tân rất giàu ý tưởng và chủ đề phê phán xoay quanh những vấn đề triết học và thực tiễn – về bản chất của nghệ thuật và thẩm mỹ, sự tiến bộ của con người, công nghệ, vị thế của Việt Nam trên trường thế giới, ý nghĩa của quốc gia trong một thế giới toàn cầu hóa, âm nhạc, v.v.. Vì vậy, kế hoạch của chúng tôi là tổ chức các triển lãm theo chủ đề, bóc tách và kết nối những ý tưởng này. Triển lãm khai mạc vào tháng 12, do tôi giám tuyển, mang tên “Vũ Dân Tân – Công dân Toàn cầu”, kể về thời kỳ sơ khởi trong nghệ thuật Vũ Dân Tân, phản ánh ảnh hưởng của những đổi mới ban đầu lên những đột phá của ông trong thập niên 90.


Hoàng Lê–cả bạn và tôi đều thuộc thế hệ 8x và lớn lên trong thập niên 90, đều có những kỷ niệm riêng với Salon Natasha, Vũ Dân Tân và thế hệ nghệ sỹ đương đại đầu tiên của Hà Nội. Tôi tò mò, khi thực hiện dự án, bạn có tận dụng những ký ức đó của mình vào quá trình thiết kế và triển khai bảo tàng không?
Hoàng Lê (HL): Lúc đầu tôi làm việc khá độc lập với những gì tôi nhớ về Salon Natasha ở 30 Hàng Bông vì việc thiết kế bảo tàng có chủ đề không giống như làm bài tập “ký ức trong bạn về ai đó là…” Bên cạnh đó, tôi thấy kỷ niệm, hay ký ức kiểu như thế này dù lặp lại nhiều ở thế hệ chúng ta nhưng khá phân mảnh, tôi không biết gom lại để thành dữ liệu đầu vào cho thiết kế như thế nào.

Thời gian đầu tôi đọc thêm nhiều tài liệu về Vũ Dân Tân và môi trường xung quanh nghệ sỹ, chủ yếu là qua Natasha, sau đó là trao đổi thêm các thông tin từ những người viết tôi khá quan tâm như TS Lenzi, Bùi Như Hương, Đào Mai Trang (là người đã kết nối tôi với Natasha), và một số nguồn quốc tế khác. Chủ yếu vẫn là tò mò cá nhân và chắp nối, hệ thống lại các ký ức bập bõm trước đây của mình thậm chí từ rất nhỏ, nhưng cũng không có dụng ý truyền tải gì.
Tôi đồng ý với Natasha là “Salon Natasha đã qua rồi” và chúng tôi làm một công trình mới, vượt khác “30 Hàng Bông” về mặt vật lý, nhưng việc ứng xử với các ký ức cuối cùng thì vẫn không tránh được và truyền dẫn nó tự nhiên qua kiến trúc, có lẽ là nhờ quãng thời gian thảo luận trao đổi thông tin như trên.
Trong cuốn sách ra mắt gần đây “Quyền lực, Chính trị và Đường phố: Nghệ thuật Đương đại Đông Nam Á sau 1970” (2024), TS Lenzi chỉ ra (tr. 89) rằng Vũ Dân Tân – cùng với Trương Tân và Nguyễn Văn Cường – là một trong số ít nghệ sỹ ở Việt Nam đã “sáng tác loại hình nghệ thuật đương đại được ghi nhận rộng rãi trên khắp Đông Nam Á” trong bối cảnh toàn cầu hóa lan rộng khắp khu vực vào những năm 1990 và đầu 2000. Phương hướng giám tuyển của chị có tìm cảm hứng từ những câu chuyện khu vực trên?
IL: Tuy Vũ Dân Tân, Trương Tân và Nguyễn Văn Cường biết rất ít hoặc không biết gì về nghệ thuật khu vực vào đầu thập niên 90, các tác phẩm của họ đã cho thấy những phê phán đáng kể đối với các vấn đề văn hoá-xã hội, cùng với các chiến lược lưu hành đậm tính sáng tạo để thu hút khán giả bên ngoài khuôn khổ thể chế, tương tự các trường hợp đương thời ở Thái Lan, Indonesia và Singapore. Tôi đã trình bày nhiều lý do cho điều này trong cuốn sách và các ấn phẩm khác. Bảo tàng tập trung chủ yếu vào Vũ Dân Tân và sự nghiệp đồ sộ của ông. Tuy nhiên, Vũ Dân Tân vốn rất tò mò, say mê với thế giới bên ngoài Việt Nam, và tinh tế trong nghệ thuật của mình, kết nối ý tưởng và hình ảnh xuyên địa lý, văn hóa và thời gian. Vì thế, việc tạo ra đối thoại giữa các tác phẩm của ông với nghệ thuật khu vực và toàn cầu thông qua các triển lãm đặc biệt đúng là một trong nhiều ý tưởng mà chúng tôi ấp ủ với Bảo tàng. Bảo tàng là một tổ chức nghiên cứu, và thực hành giám tuyển là một con đường thiết yếu để định hình diễn ngôn lịch sử nghệ thuật, vì vậy các triển lãm thuộc mọi hình thức và thể loại, ngoài những triển lãm chỉ tập trung vào Vũ Dân Tân, đều nằm trong kế hoạch.

Bảo tàng Vũ Dân Tân đang trên đà trở thành bảo tàng đương đại tư nhân đầu tiên được cấp phép tại Hà Nội. Bảo tàng có những công năng chính nào, và không gian đã được hoạch định như thế nào?
HL: Đầu tiên nhóm công năng cơ bản của bảo tàng tương đối đầy đủ dù được nén lại trong một diện tích khiêm tốn như trưng bày cố định, định kỳ, kho, văn phòng làm việc, sảnh đón, v.v.. Bên cạnh đó là hệ thống các công trình phụ trợ, khối nhà lưu trú, phần xưởng mở rộng, cảnh quan. Đây có lẽ là đồ án hiếm hoi được thiết kế mở rộng khi còn chưa được xây dựng. Ban đầu đây là quỹ đất dự phòng cho phát triển tương lai, trong quá trình thi công, hạng mục này được quyết định triển khai luôn để tăng cường hiệu suất sử dụng của công trình. Hệ thống cầu thép được thiết lập để kết nối các chức năng này, để đảm bảo chuyển động liền lạc. Công năng khi cần có thể tách bạch, nhưng cũng có thể quện lại ở một số sự kiện nào đó… Tôi mong muốn vậy.
TS Lenzi có thể bật mí với độc giả một số tác phẩm tiêu biểu sẽ xuất hiện trong gian trưng bày cố định không?
IL: Ngay từ những ngày đầu sự nghiệp, Vũ Dân Tân đã theo đuổi hướng sáng tác theo hình thức chuỗi tác phẩm, ý tưởng được phát triển theo thời gian, thông qua các biến thể. Một trong những chuỗi tác phẩm tôi yêu thích là “Tiền”, khởi nguồn vào khoảng năm 1993–1994 và kéo dài trong hơn một thập kỷ. Trong đó, tôi tâm đắc nhất bộ “Tiền (Tiền tệ)”. Nó thể hiện tất cả những nét đặc trưng của nghệ thuật đương đại Đông Nam Á và vẫn hấp dẫn về mặt thẩm mỹ và ý niệm như khi ra đời 30 năm trước đây. Các chuỗi tác phẩm “Thời trang” và “Vali của kẻ hành hương” cũng sẽ nằm trong phần trưng bày cố định. Cả hai đều rất độc đáo, trong đó tác phẩm thứ hai đặc biệt quan trọng về mặt lịch sử vì được trưng bày tại Triển lãm Lưỡng niên Nghệ thuật Đương đại Châu Á-Thái Bình Dương lần 2 vào năm 1996, và sau đó được Phòng trưng bày Nghệ thuật Queensland, nơi sở hữu một trong những bộ sưu tập đương đại Đông Nam Á xuất sắc nhất thế giới, mua lại.

“Tôi gọi Vũ Dân Tân là ‘gã hề cung đình’ để truyền tải sự phê phán ngầm của ông khi đối diện với xã hội Việt Nam và những nghịch lý của nó trong bối cảnh toàn cầu hóa thập niên 90 bằng một thành ngữ đa ngành tinh tế nhưng dễ hiểu.” – TS Iola Lenzi
Lần đầu khi Hoàng Lê dẫn tôi tới tham quan bảo tàng, tôi đã thốt lên rằng đây là một biểu tượng mới trên bờ đê Ngọc Thụy. Đường viền của hình khối kiến trúc nổi bật trên nền hoàng hôn tím than. Bạn có thể chia sẻ kỹ hơn về phong cách và hệ thống ngôn ngữ thị giác – cả ngoại và nội thất – của công trình, và sự liên quan của nó tới cố nghệ sỹ Vũ Dân Tân?
HL: Địa hình làm cho trải nghiệm kiến trúc ở đây tương đối phân tách giữa hai miền trên và dưới đê. Ngay khi bạn đến cổng công trình ở dưới thì cũng không còn cơ hội cho toàn cảnh kiến trúc dù khối tích không quá lớn, đơn thuần là trải nghiệm nội bộ phía sau cánh cửa. Ở trên bờ đê dù phải di chuyển nhanh và thoáng qua, nhưng sẽ lặp lại hàng ngày với những người quanh đó. Chỉ cần một nhóm nhỏ đi lại hàng ngày là đủ để ghi nhớ biểu tượng và tạo thành ký ức. Cũng giống như một ngày bạn đi qua Salon Natasha và thấy nó được sơn hồng, xong cứ thế mãi… Việc cần làm là nghiên cứu thêm về các chương trình cho kiến trúc theo trải nghiệm và làm ra một “hình bóng”. Ở đây tôi được “ưu đãi” bởi quản lý chiều cao các công trình lân cận khá đồng đều đủ để có một “khoảng trời tự do” cho bất kỳ biểu tượng nào kiến trúc tạo ra.
Thực ra tôi không quá cố gắng trong việc thoát khỏi “hộp trắng”. Ở văn cảnh kiểu đô thị Việt Nam ngày nay, một thứ gì đấy ngay cả công trình tín ngưỡng thần thánh cũng khó đạt được trạng thái “vô nhiễm” tuyệt đối về thị giác – theo cách phương Tây. Thêm nữa, khách tham quan sẽ rất dễ bị “áp đảo” bởi hệ thống thị giác trong sáng tác của Vũ Dân Tân cả về số lượng và năng lượng. Nên việc xem và đọc về tác giả này tôi thiên về thưởng ngoạn và xâu chuỗi. Tuy nhiên Vũ Dân Tân có một loạt các phác thảo về “ảo mộng kiến trúc” tôi khá quan tâm, vừa cụ thể, lặp lại nhưng cũng gợi mở, khó nắm bắt và quy nạp.

Năm 2010, trong lời giới thiệu về loạt tác phẩm “Tiền tệ” của Vũ Dân Tân, TS Lenzi đã khéo léo gọi cố nghệ sỹ là “gã hề cung đình”. Thời đó, ông thực sự đã thể hiện một cách tiếp cận nghệ thuật độc đáo, kỳ quặc nhưng mang tính phê phán cao, bị gạt ra ngoài khuôn khổ kinh viện ở Việt Nam. Giờ đây khi một bảo tàng dành riêng cho cố nghệ sỹ trở thành hiện thực, chị dự định trình bày những thái độ này như thế nào trong một bối cảnh dường như được “kinh viện hóa”?
IL: Anh nói đúng. Tôi gọi Vũ Dân Tân là “gã hề cung đình” để truyền tải sự phê phán ngầm của ông khi đối diện với xã hội Việt Nam và những nghịch lý của nó trong bối cảnh toàn cầu hóa thập niên 90 bằng một thành ngữ đa ngành tinh tế nhưng dễ hiểu. Bối cảnh thể chế nghệ thuật Việt Nam đã phát triển kể từ khi tôi bắt đầu nghiên cứu về Vũ Dân Tân và các đồng nghiệp của ông là Trương Tân, Nguyễn Văn Cường và những người khác – những nhân vật đã góp phần thay đổi bản chất và chức năng của nghệ thuật Việt Nam thời kỳ này. Kể từ khi tôi bắt đầu phân tích tác phẩm của họ vào đầu những năm 2000 và lịch sử hóa sự nghiệp của họ trong mối tương quan với lịch sử nghệ thuật Đông Nam Á, Vũ Dân Tân và những người đồng cấp tiên phong của ông đã dần ít bị “ra rìa” trong sử học Việt Nam hơn nhiều. Tôi đã xuất bản nhiều bài báo về Vũ Dân Tân, Nguyễn Văn Cường và Trương Tân trong 15 năm qua, trên cả nhiều tạp chí của các tổ chức ở Việt Nam như tạp chí của Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam. Từ năm 2011, tôi cũng đã trình bày các báo cáo hội thảo về những nghệ sỹ này tại Hà Nội. Do đó, có vẻ như quan điểm diễn ngôn thiên về phê phán xã hội của Vũ Dân Tân và những người khác hiện đã được chấp nhận trong giới học thuật Việt Nam, đặc biệt là khi đặt trong phạm vi lịch sử nghệ thuật đương đại Đông Nam Á rộng lớn hơn.
Quả nhiên công tác xây dựng bảo tàng cần rất nhiều nỗ lực trong mọi mặt thi công và giám tuyển, cũng như cần sự phản hồi liên tục từ các bên liên quan. Làm thế nào đội ngũ dự án cân bằng lợi ích và đóng góp của mỗi bên?
IL: Các bên liên quan chính là gia đình Vũ Dân Tân và chủ sở hữu di sản của ông, Natasha và Nhusha Vũ. Tôi là bạn của gia đình và cũng là một nhà nghiên cứu đã nghiên cứu và viết về sự nghiệp nghệ thuật của ông trong một phần tư thế kỷ, định vị nó trong thực hành và diễn ngôn đương đại của Việt Nam và Đông Nam Á. Tôi tổ chức triển lãm và ấn phẩm đầu tiên về Vũ Dân Tân vào năm 2001 tại Singapore. Tôi đã phỏng vấn ông trong nhiều giờ đồng hồ trong quá trình đó. Tôi tiếp tục tiến hành phỏng vấn ông cho hai ấn phẩm và triển lãm tiếp theo vào năm 2003 và 2009. Sau khi ông qua đời, tôi cũng đã thực hiện thêm nhiều nghiên cứu, xem xét các tư liệu, giấy tờ, sách và kho lưu trữ của ông.
Khi triển khai xây dựng Bảo tàng, chúng tôi không cần phải lo cân bằng lợi ích của nhóm vì tất cả đều thống nhất về mục tiêu đó là trưng bày nghệ thuật của Vũ Dân Tân và tạo điều kiện nghiên cứu về cố nghệ sỹ. KTS Hoàng Lê có hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật và có cách tiếp cận học thuật đối với thiết kế và kiến trúc bảo tàng. Ngay từ khi bắt đầu dự án, anh đã đắm mình vào nghệ thuật của Vũ Dân Tân và đọc tất cả các bài luận của tôi về nghệ sỹ, cũng như bất kỳ tài liệu nào khác có sẵn. Anh cũng đã tìm hiểu về nghệ thuật đương đại Đông Nam Á, vì vậy tôi có thể tự tin nói rằng bà Natasha, anh Hoàng và tôi là một đội ngũ đồng tâm hiệp lực với nhiệm vụ mang nghệ thuật và tầm nhìn của Vũ Dân Tân đến với công chúng Hà Nội và các nhóm khán giả rộng lớn hơn trong một không gian tuyệt đẹp được thiết kế riêng cho nghệ thuật của ông.

HL: Đây là một câu chuyện dài. Dự án của 3 người, những nội dung đồng thuận thì tôi không nhắc đến nữa, nói về bất đồng cho vui. Cơ bản mỗi người đều có hệ thống kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực của mình, khá triệt để về quan điểm, tôi chắc chắn bạn có cùng chung suy nghĩ và trải nghiệm cộng tác với họ như tôi, ví dụ khi tham gia thảo luận từ tiền ý tưởng đến chi tiết, phản ứng nghiêm khắc với bất kể mảy may “biểu hiện”. Có lần Natasha nói vui, “Tân quá rực rỡ và tiên tiến, tao sống cả đời với cái đấy rồi nên tao muốn không gian khác…”
Nhưng sau nhiều thời gian cộng tác đến bây giờ, tôi nhận ra họ thực sự có kinh nghiệm làm việc với những người trẻ hơn rất nhiều (trước tôi), cung cấp vừa đủ kiến thức, không gian, và kiên nhẫn cho thực hành của tôi.
TS Lenzi thực sự đóng vai trò quan trọng về mặt học thuật và lý luận, gần như các đề xuất của tôi đều cần có thảo luận của cô dù đôi lúc không quá liền mạch do khoảng cách địa lý.
Bảo tàng Vũ Dân Tân cũng là dự án bảo tàng đầu tiên của lestudioarchitects. Công trình này có gì khác biệt với những dự án khác bạn đã từng làm, và đi kèm với những thách thức và giải pháp thú vị gì?
HL: Khác biệt đầu tiên là về thể loại. Bảo tàng tư nhân thuộc nhóm công trình công cộng dù quy mô có thể hạn chế. Tiếp theo là đối tượng hưởng thụ và thưởng ngoạn. Nó phục vụ cho cộng đồng quan tâm đến văn hóa, văn nghệ, dù chọn lọc nhưng vẫn có tính đại chúng hơn một số đồ án trước đây của tôi, tuy cùng được mở cửa công cộng nhưng đối tượng thụ thưởng hạn chế và cục bộ hơn nhiều, chẳng hạn như tu viện hay nhà nguyện.
Cùng với đấy là thách thức đến từ việc tích hợp thêm chức năng lưu trú (riêng tư), dù là thứ yếu nhưng không tránh được các xung đột với các hoạt động công cộng là chủ đạo. Thực tế là trong chương trình của đồ án đã xuất hiện việc này, tôi thấy hình thái này khá phổ thông ở vùng trung tâm đô thị Hà Nội. Cơ bản tôi thích kiểu không gian này, vừa là thế này vừa là thế kia, nhưng thỏa thuận (hay thỏa hiệp nhỉ?) được khi sử dụng thực tế… Trước đây khi tham gia một vài dự án bảo tàng lớn, tôi chỉ làm việc ở một khâu nhất định ở các công ty lớn, các quy định, tiêu chuẩn, định hướng khá rõ rệt và thực dụng; nhưng ở tỷ lệ như thế này, một số suy nghĩ của tôi và văn phòng có thể được kiểm nghiệm qua công trình vật lý.

“Bà Natasha, anh Hoàng và tôi là một đội ngũ đồng tâm hiệp lực với nhiệm vụ mang nghệ thuật và tầm nhìn của Vũ Dân Tân đến với công chúng Hà Nội và các nhóm khán giả rộng lớn hơn trong một không gian tuyệt đẹp được thiết kế riêng cho nghệ thuật của ông.” – TS Iola Lenzi
Còn có những kỷ niệm thú vị nào trong quá trình xây dựng bảo tàng mà bạn muốn chia sẻ với chúng tôi không?
IL: Một trong những tác phẩm Vũ Dân Tân yêu thích của tôi là tác phẩm sắp đặt “Icarus / Cadillac” của ông từ bộ tác phẩm “RienCarNation”. Tác phẩm mang sức quyến rũ tinh nghịch nhưng lại chứa đựng rất nhiều ý tưởng liên quan đến thời đại chúng ta: những ý nghĩa không ngừng thay đổi của lịch sử, tác động của chủ nghĩa tư bản, của tiền bạc, toàn cầu hóa và những vấn đề về quyền lực. Nhân vật chính, một chiếc Cadillac phiên bản 1960 được cải tiến, được sản xuất tại California vào năm 1999 sau đó được vận chuyển đến Hà Nội, nơi nó được trình diễn vào năm 2000. Nó vượt qua thời gian, địa lý, văn hóa và hệ tư tưởng, và tạo ra đối thoại năng động với thần thoại, kinh tế, lựa chọn của công dân, và hơn thế nữa. Nó mang tính trình diễn, nhưng cũng vĩ đại về mặt vật chất, tiêu biểu cho thiên phú của Vũ Dân Tân trong việc tạo ra một hình thức có khả năng khám phá những ý tưởng phức tạp mà tất cả mọi người đều có thể hiểu được – hiện thân của thực hành thẩm mỹ-ý niệm Đông Nam Á. Qua nhiều năm, tác phẩm được lưu giữ trên mảnh đất hiện nay là bảo tàng, và dần xuống cấp và mục nát vì khí hậu Việt Nam. Chúng tôi vốn định trưng bày những di vật còn sót lại của tác phẩm trong bảo tàng, nhưng động cơ xe đã biến mất một cách bí ẩn vài năm trước, và rồi những mảnh vỡ cuối cùng của chiếc Cadillac đã bị cuốn trôi xuống sông Hồng trong cơn bão lớn mùa thu năm 2024. Vì vậy, ngày nay “Icarus / Cadillac” chỉ còn tồn tại dưới dạng bản in, ảnh chụp và video, còn bản thân tác phẩm thì đã trở thành huyền thoại.
Xin cảm ơn, và vô cùng mong chờ ngày khai trương Bảo tàng Vũ Dân Tân!
Words: Ace Lê
Translation: Ally Le


